12/07/2024 11:04
Bệnh bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây nên. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, dễ lây truyền từ người này sang người khác. Đặc điểm nguy hiểm của bệnh bạch hầu là tỷ lệ tử vong cao nếu không được điều trị kịp thời. Những trường hợp nặng có thể dẫn đến nhiễm độc, nhiễm trùng nặng, đặc biệt là gây các tổn thương viêm cơ tim, nguy cơ tử vong cao.
Theo thông tin giám sát bệnh truyền nhiễm của Bộ Y tế, hiện tại đã có ca bệnh bạch hầu xuất hiện ở hai tỉnh: Nghệ An và Bắc Giang, trong đó đã có ca tử vong và nhiều ca nghi ngờ do tiếp xúc gần với ca bệnh, nguy cơ lây lan ra cộng đồng rất cao.
PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế Dự phòng (Bộ Y tế) cho biết: bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm dù thuộc nhóm B. Nguồn lây có thể là người bệnh, người lành mang trùng. Bệnh lây theo đường hô hấp theo hình thức giọt bắn có thể lây trực tiếp do tiếp xúc với người bệnh khi nói, ho, hắt hơi… hoặc gián tiếp qua tiếp xúc với các dịch tiết chứa vi khuẩn từ niêm mạc mũi, họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng (mang vi khuẩn bạch hầu nhưng không có triệu chứng bệnh). Bệnh cũng có thể lây gián tiếp do tiếp xúc với những đồ vật có dính chất bài tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu như quần áo, tay… mà chúng ta vệ sinh kém. Hiện bệnh bạch hầu vẫn lưu hành trên toàn cầu, thường xuất hiện tản phát hoặc gây ra các vụ dịch nhỏ do không được tiêm vaccine hoặc chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu do chưa được tiêm vaccine đầy đủ. Bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh và kháng độc tố bạch hầu (SAD) và có thể dự phòng bằng vaccine. Biểu hiện bệnh có thể từ nhẹ đến nặng, thường có giả mạc màu trắng ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi, có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục, trường hợp nặng có thể gây biến chứng và tử vong. Người mắc bệnh bạch hầu thường xuất hiện những triệu chứng điển hình như sốt nhẹ, họng đỏ, nuốt đau, ho, khàn tiếng, mệt, da hơi xanh, chán ăn. Sau 2-3 ngày, người bệnh xuất hiện giả mạc mặt sau hoặc hai bên thành họng, có màu trắng ngà, xám hoặc đen. Giả mạc dai, dính, dễ chảy máu. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất để phát hiện bệnh. Ngoài ra, bệnh nhân có thể có dấu hiệu khó thở, nổi hạch ở dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời người bệnh có thể hồi phục bình thường. Hoặc bệnh có thể gây ra các biến chứng như tắc nghẽn đường hô hấp do giả mạc từ hầu họng lan xuống, viêm cơ tim, rối loạn nhịp tim, suy tim, liệt do tổn thương các dây thần kinh vận động và có thể tử vong.
|
Tiêm vắc xin là biện pháp phòng bệnh bạch hầu hiệu quả nhất. (ảnh: Quang Nhật)
|
Tại Việt Nam, trước đây bệnh lưu hành khá phổ biến ở hầu hết các địa phương trên cả nước; từ khi vaccine phòng bạch hầu được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng, bệnh đã được khống chế và chỉ ghi nhận một vài trường hợp lẻ tẻ do không tiêm vaccine phòng bệnh, thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp. Hiện bệnh bạch hầu chưa được loại trừ ở nước ta, do đó người dân vẫn có thể mắc bệnh nếu chưa tiêm vaccine phòng bệnh và tiếp xúc với mầm bệnh.
Nói về việc bệnh bạch hầu hay xảy ra ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, PGS.TS Trần Đắc Phu cho biết thêm: có nhiều yếu tố dẫn đến bệnh bạch hầu vẫn còn lưu hành, như tỷ lệ tiêm chủng tại một số vùng thấp như do ảnh hưởng của dịch COVID-19, gián đoạn cung ứng vaccine nên nhiều trường hợp không tiêm vaccine hoặc tiêm không đủ liều. Tại Tây Nguyên cũng có thời gian dịch bùng phát song hiện nay không có dịch xảy ra nhờ tiêm chiến dịch Td (vaccine uốn ván, bạch hầu) cho người dân ở khu vực này.
Cũng theo PGS.TS Trần Đắc Phu, mặc dù bệnh hay xảy ra ở khu vực miền núi nhưng chúng ta cũng không được chủ quan, khi dịch bùng phát thì bất kỳ ở đâu, thành phố hay nông thôn, miền núi, những ai không có miễn dịch (do tiêm chủng hoặc do nhiễm phải) thì đều có khả năng mắc bệnh có triệu chứng hoặc nhiễm vi khuẩn và trở thành người lành mang trùng lại mang vi khuẩn đi lây cho người khác. Về lâu dài, biện pháp phòng bệnh hiệu quả vẫn là tiêm vaccine. Trẻ cần được tiêm đúng lịch, đủ liều cơ bản sau đó thì tiêm nhắc lại theo lịch tiêm chủng của Bộ Y tế. Người lớn cần tiêm nhắc lại khoảng 10 năm một lần. Tại những vùng có nguy cơ cao, có thể thực hiện những chiến dịch tiêm vét, tiêm bổ sung…
Để phòng bệnh bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến cáo: Đưa trẻ đi tiêm chủng tiêm vắc xin phối hợp phòng bệnh bạch hầu: ComBe Five hoặc DPT-VGB-Hib (SII), Td đầy đủ, đúng lịch; Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; khi ho, hắt hơi cần che miệng, giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh bạch hầu hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu; Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ sạch sẽ, lớp học thông thoáng và có đủ ánh sáng; Khi có dấu hiệu mắc bệnh bạch hầu hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu phải được cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời; Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc phòng và tiêm vắc xin phòng chống bệnh bạch hầu theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế./.
Mỹ Hạnh
Facebook
Tweet
Mail
Google-plus
Các tin khác