05/08/2016 12:00
Lời nói đầu
Trong cuộc kháng chiến trường ky gian khổ của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt nam, nhân dân ta đã kiên cường, anh dũng đánh bại hai đế quốc hùng mạnh nhất thế giới là Pháp và Mỹ dành độc lập tự do cho đất nước. Ngày 30/4/1975 lá cờ quyết chiến quyết thắng của quan dân ta tung bay trên nóc dinh Độc Lập, dinh lũy cuối cùng của đế quốc và tay sai, dành lại toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc sau ba mươi năm bị quân thù chia cắt; non sông đã thu về một mối, đất nước đã hòa bình và thống nhất liền một dải từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau.
Trong cuộc đấu tranh vẻ vang ấy, biết bao thế hệ đồng bào chiến sĩ đã không quản hy sinh, gian khổ chung sắc, một lòng làm nên chiến thắng vĩ đại của đất nước, trong đó có phần công sức đóng góp của đội ngũ những người thầy thuốc chiến sỹ trên mọi miền Tổ quốc. Ngành Y tế Đắk Lắk được hình thành và phát triển từ những ngày đầu khai sính Nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa 2/9/1945; được rèn luyện và thử thách trưởng thành từ trong khói lửa chiến tranh của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Lịch sử không bao giờ quên những người con ưu tú trên quê hương Đắk Lắk đã có những cống hiến, hy sinh và những đóng góp to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, làm nên chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975, khởi đầu một loạt chiến thắng và kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng ngày 30/4/1975.
Để ghi nhớ công ơn của những người thầy thuốc, chiến sỹ của ngành Y tế tỉnh Đắk Lắk qua các thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và giai đoạn xây dựng đất nước sau ngày giải phóng tới nay. Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk giới thiệu lịch sử ngành Y tế cách mạng Đắk Lắk(1945-2005). Đây là tập hợp những kỷ niệm sâu sắc của các thế hệ cán bộ lão thành của ngành y tế Đắk Lắk qua các thời kì. Được tập thể cán bộ, nhân viên ngành y tế Đắk Lắk sưu tầm, biên soạn và chỉnh lý. Dành nhiều trang nói về sự gian khổ hy sinh của nhiều thế hệ cán bộ, nhân viên ngành Y tế Đắk Lắk trong phục vụ chiến đấu và chiến đấu; sự mưu trí, sáng tạo, linh hoạt và bãn lĩnh kiên cường của những người thầy thuốc trong chiến tranh, để làm tốt việc cấp cứu, điều trị thương, bệnh binh và nhân dân; trong mọi hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, thiếu thốn và cái chết luôn cận kề, nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và quân dân giao phó. Cũng chính những người thầy thuốc trong chiến tranh gian khổ và khốc liệt ấy, sau này đã đoàn kết một lòng, đóng góp sức lực và trí tuệ xây dựng nên ngành Y tế Đắk Lắk phát triển lớn mạnh ngày hôm nay.
Tuy đã dành nhiều công sức, trí tuệ và thời gian của tập thể cán bộ, nhân viên ngành y tế và được sự chỉ đạo và được sự giúp đỡ quý báu của Ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy và các ban ngành lien quan. Những người thực hiện biên soạn cuốn sách này không tránh khỏi những khuyết điểm nhất định rất mong sự góp ý chân thành của cán bộ lãnh đạo ngành Y tế Đắk Lắk qua các thời kỳ; cán bộ, nhân viên ngành y tế Đắk Lắk và các bạn đọc gần xa để lần tái bản sau Sách lịch sử ngành y tế Đắk Lắk được đầy đủ và trọn vẹn hơn.
Xin chân thành cảm ơn
Chủ Biên: Bs Đặng Ngọc Bốn
(Nguyên Giám Đốc Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk)
Phần thứ nhất
CHƯƠNG I
-
SƠ LƯỢC VỀ KINH TẾ XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC ĐẮK LẮK:
-
Vị trí địa lý:
Đắk Lắk nằm ở phía Tây Nam Cao Nguyên miền Trung, với diện tích 13.062 km2. Độ cao trung bình từ 400-800m so với mực nước biển, dãy Cư Yang Sin cao 2.442m, Năm Bri cao 1580 m tạo thành một vòng cung lớn bao bọc phía Đông và Đông Nam, hình thành những căn cứ liên hoàn cho các tỉnh Đắk Lắk, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng, tạo nên đường hành lang kín đáo nối các tỉnh đồng bằng Trung Bộ và Đông Nam Bộ.
Phía Tây, dọc biên giới Việt Nam- Campuchia bằng phẳng, hấp dẫn, đất đai màu mỡ. Ngoài sông Sêrêpôk, còn có các sông Krông Na, Krông Nô, Krông Buk, Ea Suop, Ea H’leo đều từ phía Đông chảy ngược về phía Tây, hòa vào sông Mê Kông (Campuchia); có hồ Lăk (rộng 500 ha) rộng nhất cao nguyên miền Trung. Lượng nước song suối phụ thuộc vào mùa khô hay mùa mưa. Mùa mưa lượng nước chảy lớn, chảy xiết, đi lại khó khắn; mùa khô nhiều con suối không còn nước, ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Khí hậu Đắk Lắk chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 mưa nhiều, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 khí hậu khô, gió nhiều và lạnh.
Yếu tố thuận lợi của Đắk Lắk là tỉnh có diện tích đất tự nhiên khoảng 725.000 ha đất bazan màu mỡ thích hợp cho cây cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, điều… trong đó cà phê được đưa đến Việt Nam năm 1875, bắt đầu phát triển từ năm 1920, đến năm 1928 có 30.000 ha với sản lượng 20.000 tấn, đến nay toàn tỉnh có 173/204 xã trồng cà phê với diện tích 160.000 ha, sản lượng đạt khoảng hơn 300.000 tấn, ngành kinh tế chủ lực của tỉnh còn có hơn 32.000 ha cao su với 9.000 tấn mủ khô/năm.
Rừng Đắk Lắk phong phú về chủng loại động thực vật, trữ lượng lớn với nhiều gỗ quý hiếm, phục vụ xây dựng các công trình và xuất khẩu. Rừng còn là nguồn dược liệu quý hiếm như trầm hương, sâm nam, thiên niên kiện, sa nhân…
Với địa hình hiểm trở và vị trí chiến lược quan trọng, ngay khi mới đặt chân tới Đắk Lắk, thực dân Pháp đã mở nhiều đường chiến lược như: Đường 14 xuyên qua Đắk Lắk từ Bắc xuống Nam, nối vùng đất đỏ Cao Nguyên với Đông Nam Bộ. Quốc lộ 26 nối Buôn Ma Thuột với biển Khánh Hòa, đường 27 kéo dài nối Buôn Ma Thuột vào Đà Lạt, đường số 7, nối với đường 2b từ M’drăk đi Củng Sơn, đường BrơTen nối đường 14 ở Buôn Hồ với đường 27 ở Chư Cúc. Đắk Lắk còn có sân bay Hòa Bình (còn một số sân bay dã chiến nay không còn dùng). Đắk Lắk ở vào vị trí chiến lược
“ Ai chiếm được Tây Nguyên, sẽ chiếm được Đông Dương”, các nhà quân sự phương Tây đã từng đánh giá như vậy, vì “ Đắk Lắk là một điẻm chốt lợi hại,…là mái nhà của Nam Đông Dương, bức tường thành biển Đông và cửa ngõ vào Nam Bộ”. Đó cũng là lý do để thực dân Pháp đánh chiếm lại Đắk Lắk sau chưa tròn 100 ngày sau Cách mạng Tháng 8/1945 thành công.
2. Tình hình văn hóa và xã hội:
a. Xã hội:
Đắk Lắk là quê hương của dân tộc Êđê 129.000 người, M’nông 38.000 người, Gia Rai 6.000 người. Thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp, với chính sách chia rẽ Kinh- Thượng, dưới chiêu bài “ đất Thượng của người Thượng”, coi người kinh là ngoại quốc, cấm đồng bào Êđê, M’nông quan hệ buôn bán với người Kinh; không cho phép người kinh lên làm ăn sinh sống ở Tây Nguyên. Đó cũng chính là nguyên nhân trước cách mạng tháng8/1945 số người kinh có mặt ở Đắk Lắk rất ít, thể hiển rõ dã tâm thâm độc của thực dân Pháp, sử dụng chính sách ngu dân, kìm kẹp người dân tộc bản xứ không giao lưu với đồng bằng và sự văn minh để phát triển văn hóa xã hội. Bọn chúng hòng khai thác thuộc địa với nhân công rẻ mạt: “…trên cao nguyên ấy, khí hậu độc địa của miền nhiệt đới, chúng ta phải sử dụng cư dân bản xứ để khai thác đất đai hào phóng… dồn chúng vào 1 vùng, những vùng hoang vắng để khai thác, trồng trọt các loại cây lắm lợi như cà phê, chè. Bọn chủ làng sẽ cung cấp cho anh lực lượng công nhân không phải mất tiền…”. Từ luận điểm này, bọn thực dân xâm lược đã áp bức, bóc lột hết sức tàn bạo người dân. Chúng giam hãm đồng bào dân tộc trong tối tăm, lạc hậu, nghèo đói, để dễ bề bóc lột. Đi làm ăn xâu không no, không có mặc, ốm đau không có thuốc men nên đàn ông kiệt sức, đàn bà sinh đẻ không được chăm sóc, trẻ sơ sinh không nuôi được dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng. Ở Buôn Tring – Đăk Lăk, năm 1920 có 650 người từ 18 tuổi trở lên, đến 1945 chỉ còn 300 người. Nhiều buôn làng, tỷ lệ chết nhiều hơn số sinh, đến mức Liô Rát ( Lieu Rade) một bác sĩ người Pháp phải thừa nhận: “ Chế độ đi xâu là nguyên nhân làm cho sinh hoạt của người thổ dân bị bần cùng, sinh lý suy kiệt, mức đẻ ngày càng giảm sút”.
Cùng chính sách bóc lột kinh tế, chúng thi hành chính sách ngu dân triệt để. Cả Đắk Lắk chỉ có một trường tiểu học gần 500 học trò một năm học, chủ yếu đào tạo con em các chủ làng phản động làm tay sai cho chúng, để đàn áp lại chính đồng bào của mình. Chúng cho biên soạn luật tục dùng để trị người dân tộc, lập tòa án phong tục để xử trị những người có tinh thần yêu nước chống Pháp. Biến các lễ hội truyền thống vốn mang bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc, thành các cuộc ăn uống tốn kém, đầy mê tín dị đoan để dễ thống trị về mặt tinh thần trong các buổi lễ cúng thần lúa, thần bến nước, lễ tang…
Đặc điểm dân cư ở Đắk Lắk, với mật độ dân cư thưa thớt, quan hệ xã hội truyền thống tồn tại lâu dài, trong đó sự phát triển các quan hệ công xã còn đậm nét, cộng đồng xã hội phân chia thành nhiều đơn vị cơ sở là buôn. Trong buôn là các đại gia đình theo chế đọ mẫu hệ, có quan hệ thân tộc, thích tộc ở mức đọ khác nhau làm cho quan hệ cộng đồng buôn đượcduy trì khá bền vững.
Nhằm thực hiện chính sách “dùng người bản xứ trị người bản xứ”, thực dân Pháp sau khi chiếm Đắk Lắk, chia Đắk Lắk thành 5 quận: M’drăk, Buôn Hồ, Đăk Song, Lăk và Buôn Ma Thuột và áp dụng hệ thống cai trị mới:
- Làng (buôn) có chủ làng (khoa buôn) thaymặt chính quyền bắt xâu, thu thuế, không có lương.
- Tổng (Kring) nhiều buôn họp thành tổng, có phó, chánh tổng trông coi được lãnh lương.
- Quận/Huyện: Có chủ huyện và một tên Pháp cai quản.
- Tỉnh: Cầm đầu là 1 công sứ Pháp.
Tuy nhiên hệ thống cơ sở (buôn), chủ làng vẫn là người được nhân dân tín nhiệm bầu lên để ứng phó với những diễn biến xảy ra trong cuộc sống thôn buôn. Là người quản lý luật tục, có uy tín, là thủ lĩnh cả về chính trị, kinh tế văn hóa xã hội của buôn, làng không có thù lao mà hoàn toàn tự nguyện.
Sau khi đặt được ách thống trị trên Đắk Lắk, cùng với việc thiết lập hành chính kiểu thuộc địa. Thực dân Pháp thực hiện chính sách đóng cửa, nhằm duy trì cuộc sống của đồng bào ta trong vòng tối tăm lạc hậu để dễ bề thống trị và bóc lột nhân công rẻ mạt. Thực dân Pháp đi đến đâu, đồn điền mọc lên đến đó. Những vùng đất màu mỡ đều bị tước đoạt. Đầu tiên là đồn điền Compagnie Agricole D’asie và Compa-guiedes Haut Plateaux Indochinois đã chiếm 30.000 ha đất bằng phẳng chạy dài theo hai con đường 14 và 21 để trồng cà phê và cao su.
Quy mô đồn điền mở rộng bao nhiêu, chế độ đi xâu càng tàn bạo bấy nhiêu, lúc thời vụ không có người thu hoạch, khiến cho mùa màng sút kém, nạn đói kéo dài triền miên, kết quả, điều mà quân xâm lược nói là khai hóa cho dân bản địa, thức sự là chế độ bóc lột, nền văn minh tư bản không hề để lại dấu ấn nào đối với người dân sống ở buôn, rẫy trong rừng sâu, sự bóc lột ấy, chỉ là đẩy nhân dân đến chỗ bần cùng hóa mà thôi.
b. Tín ngưỡng
Tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc Đắk Lắk trước cách mạng tháng tám ở vào thời kì cuối tín ngưỡng nguyên thủy. Các thần linh được gọi là Yàng. Theo đồng bào, Yàng là vị thần có quyền lực tối thượng đối với đời sống con người, gió, sấm, mây, mưa là biểu hiện sự nổi giận của thần linh (Yàng), mặt trời và mặt trăng là những vị thần có quyền lực. Những ngôi sao được là Thần Rit soi sáng trí tuệ, Pôthê là thần mùa màng… Trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào không có vết tích nào của đẳng cấp tôn giáo (trừ thầy cúng) nhưng lại tin về thuyết luân hồi, về cuộc sống đời sau.
3. Các phong tục tập quán:
Trong quá trình tồn tại và phát triển, đồng bào các dân tộc ở Đắk Lắk đã phát huy và gìn giữ bản sắc văn hóa, tập quán đặc trưng của mình làm phong phú thêm cho cả kho tàng văn hóa văn học Việt Nam.
Hôn nhân: Hôn nhân tổ chức theo nhiều cách khác nhau của từng dân tộc, nhưng nhìn chung con trai, con gái hoàn toàn tự nguyện. Sau khi tìm hiểu nhau, được sự thỏa thuận của cha mẹ, họ nhờ người mối đến nói chuyện với gia đình 2 bên, khi yêu cầu được chấp nhận, thì người con trai đến nhà cô gái ở rể để làm mọi công việc, quan hệ bắt đầu thân mật. Sau thời gian ở rể, lẽ cưới được tổ chức đơn giản, thường nhờ thầy cúng làm lễ cúng thần linh, thầy cúng dùng rượu pha tiết lợn nhúng chân đôi trai gái làm phép cho tình duyên lâu bền. Hôn nhân giữa người cùng huyết thống bị nghiêm cấm, anh em con chú bác ruột không được lấy nhau. Người Êđê, chế độ đa thê được chấp nhận nhưng thường chỉ đối với người khá giả. Gặp trường hợp vợ chết, tài sản của hai vợ chồng thuộc về cha mẹ vợ, người đàn ông có thể chọn người vợ mới trong số các chị em của vợ. Ngược lại, khi chồng chết nếu người vợ không tái hôn với anh em người chồng, tài sản được chia cho người vợ và cha mẹ người chồng đã chết.
Sinh nở là việc hiển nhiên trong đời sống gia đình, người phụ nữ có thai thấy đau bụng thì cho gọi người hàng xóm biết nghề đỡ đẻ đến giúp đỡ: Đồng bào có phong tục đẻ ngồi, người mẹ ngồi xổm, người đỡ đẻ vuốt từ trên xuống dưới bụng bầu, vừa vuốt vừa dùng đầu gối ép mạnh vào lưng, một người khác đỡ lấy đứa bé, rốn được buộc bằng một sợi chỉ vải rồi dùng một dao nứa vót mỏng cắt dây rốn, đứa trẻ được tắm bằng nước ấm và được cho bú ngay. Người mẹ được để nằm gần bếp lửa cạnh đứa con, và được xoa bóp gừng để chống gió, ngoài ra để nhanh chóng lấy lại sức khỏe cho sản phụ, người ta dùng một loại cây gọi là “xa băng” nấu sôi lên, cho người mẹ uống thứ nước này, uống có vị chua mát, có tác dụng thông máu, đồng thời để “giải cử”, nhằm đặt tên cho đứa bé. Sau chừng mười ngày, người mẹ bắt đầu trở lại làm việc bình thường, đứa bé sơ sinh được địu sau lưng hoặc lót trong một tấm vải thắt lại trước ngực người mẹ khi đi làm, được bú và làm quen với cơm từ miệng mẹ nhai mớm cho, đến khi tự biết ăn. Kiểu đỡ đẻ, cắt rốn lạc hậu cùng sự chăm sóc hạn chế và người mẹ phải đi làm sớm, dẫn đến nguyên nhân “hữu sinh vô dưỡng” khá cao.
Nhà ở và cuộc sống gia đình: Buôn, làng của đồng bào dân tộc, thường ở gần một dòng sông, hoặc hồ nước. Đơn vị buôn, làng lớn, nhỏ khác nhau theo số hộ quần tụ, xung quanh thường có hàng rào bảo vệ kiên cố bằng thân các cây gỗ, có buôn, làng dựng 3-4 lớp rào, vừa để chống thú dữ, vừa có thể đề phòng, ngăn chặn sự cướp bóc của các bộ tộc khác, nó như một cứ điểm phòng thủ thời cổ đại. Nhà của đồng bào thường dựng theo kiểu nhà sàn, theo hướng Bắc – Nam, có một sân nhô ra ngoài để có thể chất hàng hóa lên lưng voi được dễ dàng. Nhà bằng gỗ vững chãi, chiều dài của nhà thay đổi tùy theo bộ lạc và số thành viên trong gia đình. Trong nhà thường chia ra các phần nhà, nơi tiếp khách, bếp lửa, chỗ ăn uống và các ngăn để ngủ. Dưới sàn nhà là chuồng để trâu bò, ngựa và heo, gà được bảo vệ bằng các cánh cửa đóng lại khi đêm đến. Việc xây dựng buôn, làng khá tốn kém, nhất là khi có sự việc xảy ra, phải dời đi nơi khác, như có nạn dịch gây ra chết người trong làng, có người chết vì bệnh cùi (phong)…
Tang lễ: Đồng bào dân tộc tin rằng trong mỗi người có một linh hồn “Bong” khi có người chết. Từ việc khâm liệm đến mai táng đều dựa vào thầy cúng với những nghi thức khá phức tạp và tốn kém. Khi nghe tiếng trống báo hiệu trong làng có người chết. Tất cả mọi người trong làng đều tụ tập tại nhà tang chủ, mang theo những món thực phẩm như gạo, trứng, rau… để đóng góp. Quan tài thường được đẽo từ một loại gỗ tốt (với những người khá giả) hoặc thân cây gạo (với những người nghèo). Người chết để trong quan tài nhiều ngày, mọi người thân thiết ngồi quanh áo quan, xen lẫn tiếng khóc than của người thân, sau thời gian nhất định mới đem đi mai táng. Huyệt được đào sau từ 2 đến 3 mét. Với người Êđê, đầu người chết để theo hướng Đông, người M’nông hoăc Gia rai để đầu theo hướng Tây. Tùy theo uy tín và tài sản của người chết, bà con để lại quanh mộ những dụng cụ gia đình (chia của) cho người chết và thỉnh thoảng đi thăm mộ, cho đến khi coi như đã làm làm tròn bổn phận với người chết, người ta làm một lễ nhỏ gọi là lễ bỏ mả, để từ biệt người chết và không bao giờ đến thăm viếng nữa.
Mộ của người Êđê, có cái nhà mồ phủ linh mộ, nhằm bảo quản những tặng phẩm dành cho người chết, xung quanh và 4 trụ ngôi nhà được trang trí bằng những hình vẽ, tượng khắc đơn giản, mộ của ngươi M’nông hình tròn…Nhà mồ của người đồng bào dân tộc là một công trình nghệ thuật với những tượng gỗ, thể hiện sự mộc mạc, nói lên tình yêu, sự luyến tiếc đối với người đã khuất.
Trồng trọt: Với điều kiện sống tự cung tự cấp, phương pháp canh tác của đồng bào còn rất đơn giản, chủ yếu phát rẫy bằng rìu, chọt lỗ tra hạt, tuốt lúa bằng tay, lấy chân vò thóc, lúa và ngô là lương thực chủ yếu của đồng bào. Phương thức canh tác phụ thuộc vào thời tiết, nên thường gặp rủi ro, lúa rẫy và ngô năng suất thấp, tuy nhiên do đất rộng nơi nào có sức lao động thì cuộc sống cũng bảo đảm. Ngoài lúa ngô, trong các rẫy còn được trồng xen thêm các loại thực phẩm, hoa màu như bầu bí, dưa đỏ, dưa chuột, cà, ớt và các loại rau, thuốc lá, cây ăn quả,… rẫy thường được rào, đặt các bẫy sập, mang cung xung quanh để ngăn chặn thú rừng.
Để xua đuổi chim chóc phá lúa, đồng bào dựng các chong chóng và treo những khúc nứa, lợi dụng sức gió va chạm vào nhau phát ra tiếng kêu để đuổi chim, cũng là hình ảnh đi trước của đàn T’rưng sau này. Ở một số ít vùng có trồng lúa nước, đồng bào cũng biết làm các “con nước” tinh xảo để đảm bảo nước cho sản xuất.
Chăn nuôi: Gia súc, gia cầm trong các buôn, làng có khá nhiều trâu, bò, là tài sản nổi của gia đình. Việc chăn, thả thường do trẻ em cai quản, mỗi đàn vài chục con, chủ yếu sử dụng vào các cuộc cúng lễ, không coi là một phương tiện để sản xuất, heo, gà và dê cũng được nuôi khá nhiều. Đặc biệt voi được săn bắt và thuần hóa dùng làm phương tiện vận tải và kéo gỗ, Đắk Lắk là địa điểm nổi tiếng về nghề bắt và thuần dưỡng voi rừng, có năm đàn voi của Đắk Lắk thuần dưỡng lên đến 200 con và đã từng là thị trường xuất khẩu voi sang các nước Miến Điện, Thái Lan và Mã Lai: Chỉ 10 năm từ 1899 dến 1908 Đắk Lắk đã bán ra thị trường trên 161 con voi để đổi lấy chiêng, ché vải, muối phục vụ đời sống nhân dân.
4. Các nghề thủ công truyền thống:
Sống trong điều kiệm xã hội bị khép kín, thương mại lưu thông hàng hóa không phát triển, đồng bào các dân tộc Đắk Lắk đã sớm biết nghề trồng bông kéo sợi và dệt ra những tấm chăn vải, với nhiều màu sắc rực rỡ. Khi khoác những tấm chăn lên mình và vắt một tà lên vai như kiểu khoác áo, đàn ông thường chít khăn lên đầu màu tím hoặc màu xanh nước biển (người Êđê), màu đen (người M’nông) và người Gia Rai khăn màu đỏ… Vải dệt đều do bàn tay của phụ nữ, những họa tiết, hoa văn cho từng chiếc chăn là kết quả lao động cần mẫn, hiếm có. Để có được sợi mang màu sắc, phụ nữ lấy sợi ngâm vài ngày vào vôi ăn trầu, sợi bông trắng sẽ biến thành màu xanh biển nhạt, xanh lá cây hay màu đen ( tùy theo lượt nhúng sợi và phơi khô) màu đỏ dùng vỏ cây nao, màu đỏ tía lấy từ cây “A ních” và màu vàng lấy từ nghệ…
Các dụng cụ dùng cho sinh hoạt gia đình thường tự chế tác lấy như gùi đựng đồ vật. Để thắp sáng thường dùng nhựa cây “H’rách” lấy ở rừng. Nghề rèn chỉ phát triển ở vùng đồng bào M’nông, chủ yếu là rèn rìu, dao để phát rẫy làm nương và được trao đổi với các bộ tộc khác. Nhìn chung, ngành nghề thủ công còn phát triển ở mức độ thấp do nhu cầu sản xuất và lao động còn khá đơn giản, ngoài những tấm thổ cẩm mang đậm dấu ấn nghệ thuật và tài hoa.
5. Các hoạt động văn hóa truyền thống
Chữ viết xuất hiện khá muộn tại Đắk Lắk, nhưng đồng bào dân tộc có một nền văn học dân gian phát triển mạnh với những bản trường ca như Đam San, Xinh Nhã…, trong kho tàng cổ tích Êđê, M’nông, trong các loại Knăn (ngâm) là những câu chuyện truyền thuyết tuyệt vời của nhân dân.
Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, đồng bào các dân tộc đã sáng tác ra nhiều nhạc cụ độc đáo như cồng, chiêng, đàn T’rưng, đinh năm, khèn, khơ ní…. Những âm nhạc khi tấu lên rất gần gũi với tiếng chim hót, suối reo, tiếng giã gạo…hòa trong khung cảnh hùng vĩ của núi rừng. Cùng với những điệu múa, lời ca, những hoạt động lễ hội như: Lễ gieo giống, lễ nảy mầm, lễ gặt mùa, đổ lúa vào kho được tổ chức tưng bừng trong các buôn, làng… làm cho sinh hoạt cộng đồng vô cùng sống động.
6. Truyền thống đấu tranh chống đế quốc Pháp xâm lược
Sau khi nhà Nguyễn ươn hèn nhượng bộ quân Pháp, để vùng đất Tây Nguyên trực tiếp dưới quyền bảo hộ của chúng. Thực dân Pháp thiết lập tại Đắk Lắk hệ thống đồn bốt để khống chế, kiểm soát nhân dân: Buôn Đôn (1899) Buôn Tur (1900) đồn H’wing, Buôn Ma Thuột (1900), M’drắk (1904), Bou Poustra (1908). Bọn chúng lập tức vấp phải cuộc chiến đấu không khoan nhượng của đồng bào các dân tộc để giữ đất đai, rừng núi và mồ mả ông bà tổ tiên.
Mở đầu cho cuộc chiến đấu của nhân dân Đắk Lắk là cuộc khởi nghĩa Ama Shao (1889-1905). Ông là người buôn Tung, cách Buôn Ma Thuột 16 km về phía đông bác. Năm 1905, trong một trận đánh Ama Shao bị bọn vệ sĩ phản bội bắt ông nộp cho giặc, ông bị chúng giam rồi tuyệt thực hy sinh tại nhà tù Buôn Ma Thuột.
Ở đường số 7, có cuộc nổi dậy của đồng bào M’dhurdo là Oi H’Mai- Oi H’Phai (1901-1909), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Oi H’Mai đã tấn công nhiều đồn pháp, trong đó có trận tiêu diệt đồn Khố Xanh gần sông H’Năng (1901). Đồng bào các vùng khác trong tỉnh cũng liên tục nổi dậy chống ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp dưới sự chỉ huy của các tù trưởng tiêu biểu là Oi Dla (1901-1907), Ama Lai (1907). Từ năm 1887-1913 có cuộc nổi dậy của dân tộc M’nông Bih ở Krông Ana do N’trang Gưh chỉ huy với lời thề: “Đất tổ tiên… là dòng máu thấm bao đời lam lũ để trở thành màu đỏ, làm sao ta có thể giao cho kẻ đinh chinh phục”.
Năm 1925-1926 số đông công chức các ngành giáo dục, công chánh, y tế, nhà máy đèn… ở thị xã Buôn Ma Thuột do hai thầy giáo tiến bộ người Êđê là Y Utt Niê và Y Jut Hwing đã lãnh đạo đấu tranh chống chế độ sưu thuế của thực dân Pháp và lên án tên công sứ gian ác Sabatiêr.
Cuộc khởi nghĩa lớn nhất chống lại ách thống trị của thực dân Pháp trong những năm đầu thế kỉ XX ở Đắk Lắk là cuộc khởi nghĩa của N’Trang Lơng (1912-1935). N’Trang Lơng là một người M’nông tên thật là N’Trang, sinh năm 1870 tại làng Bu N’Trang, thuộc khu vực Dăk Rtih. Là một tù trưởng có uy tín, có sức khỏe, đức độ và tài năng săn bắn thú rừng, được nhiều bộ lạc khác kính nể. Năm 1912, ông nhận vai trò lãnh đạo quân khởi nghĩa của người M’nông ở vùng hạ lưu sông Krông Ana và sông Krông Nô. Ngoài lực lượng quân M’nông, ông còn liên kết với một số nghĩa quân khác, chiến đấu suốt 24 năm liền trên Cao Nguyên M’nông, mở nhiều trận tấn công vào các đồn bốt, tiêu diệt quân xâm lược, làm giắc Pháp thiệt hại nặng nề.
Giữa tháng 6/1935, trong một trận chiến đấu quyết liệt, N’trang Lơng đã bị bắt cùng hàng chục thủ lĩnh quan trọng khác. Ông bị Pháp giết ngày25/6/1935, sự hy sinh của ông mãi mãi ghi đậm dấu ấn trong lòng nhân dân Đắk Lắk, cỗ vũ nhân dân trong những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sau này. Sau ngày ông mất, một tờ báo Pháp đã viết: “N’Trang Lơng, tù trưởng giết Hăng- Ri Mét đã chết trong một cuộc giao chiến, là kẻ thù nguy hiểm ngăn chặn công cuộc khai phá của Pháp quốc ở vùng đất này…”.
-
TÌNH HÌNH BỆNH TẬT, CHỮA TRỊ TRƯỚC NĂM 1945
-
Môi trường và bệnh tật
Do đồng bào các dân tộc phần lớn cuộc sống sinh hoạt đều dựa vào rừng núi: Săn bắt, phát rừng, đốt rẫy trồng tỉa, khi rẫy bạc màu lại di cư đi nơi khác. Với cuộc sống du canh, du cư nên nhà ở thường tạm bợ, người và súc vật sống chung, ăn uống thiếu thốn, nhiều bộ tộc chỉ săn bắt hái lượm, được gọi là “lá vàng” vì sự du canh du cư chỉ trong một thời gian rất ngắn đủ cho lá lợp chòi vàng úa. Cũng với tập tục sống lạc hậu và sự sinh sản mang tính tự nhiên, ngoài tập tục đẻ ngồi thì ở một số buôn làng, nhiều người mẹ khi đau đẻ bị đưa lên rừng tự “vượt cạn”, phần lớn những cuộc đẻ đó đều dẫn tới cái chết của trẻ sơ sinh và nguy hiểm tới tính mạng người mẹ. Nhiều dịch bệnh hiểm nghèo, cấp tính gây chết người luôn rình rập tính mạng người dân, do đặc điểm sống quần thể nên các bệnh lây nhiễm dễ lan tràn, ảnh hưởng lớn đến đời sống và sự phát triển giống nòi. Vì vậy, dân số của các bộ tộc đồng bào hầu như không tăng, nhiều vùng do tình trạng “hữu sinh vô dưỡng”cùng chế độ đi xâu hà khắc, dã man của thực dân Pháp làm sức khỏe của người dân cạn kiệt dẫn tới dân số giảm sút trầm trọng, chất lượng giống nòi rất thấp kém, có bộ tộc gần như bị tuyệt chủng.
Trước cách mạng tháng 8/1945, Đắk Lắk không có tổ chức y tế, cũng không có nhân viên y tế để chữa bệnh cho nhân dân, ngoài một bệnh viện ở Buôn Ma Thuột chủ yếu chữa cho người Pháp và bọn cường hào tay chân phục vụ cho chúng. Bởi vậy, các bệnh viêm phổi, sốt rét, thương hàn, tả, dịch hạch, đậu mùa… luôn luôn phát sinh ở vùng đồng bào dân tộc, làm chết nhiều người. Hình ảnh buôn Ai Lum vùng M’nông, sau khi bị một trận dịch gây chết người hàng loạt, đồng bào phá làng, bỏ đi được ghi lại như sau: “… chỉ mới đây thôi, buôn này còn ắp tiếng cười, nói ồn ào bên những ché rượu, nay chỉ còn trơ lại những chiếc cọc và những chiếc nồi vỡ, những đống tro tàn… dân làng đã phải bỏ đi tìm đất khác để tồn tại:. (Henri Mawktre- 1940).
Cách chữa bệnh trong nhân dân: Để tồn tại giống nòi, đồng bào các dân tộc ngoài việc phải lo lao động, tự tìm lấy nguồn lương thực, nước uống để duy trì cuộc sống, tự tìm cách bảo vệ con người, chống chọi với thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, phải tự lo chữa bệnh khi ốm đau và thương tích khi lao động, sản xuất và chiến đấu chống thú dữ, kẻ thù. Do đặc điểm sống quần thể nên việc chung lưng góp sức, chia cơm, sẻ áo được tồn tại khá bền vững. Cộng đồng buôn, làng cùng nhau tìm kiếm thức ăn là hoa quả, cây cỏ, động vật, sử dụng thứ nào không độc, có lợi ích cho đời sống thì mách nhau, từ việc biết lấy lá che thân, lấy vỏ cây làm chăn ấm, làm áo mặc, đốt lửa để sưởi ấm, bện lá làm chiếu và làm nhà để ở chống thú dữ và che chắn mưa gió, nấu nướng ăn chín…
Để bảo vệ sức khỏe, ngoài yếu tố tâm linh, mê tín chữa bệnh nhờ thầy cúng, đồng bào đã biết tìm lá cây quanh nhà, trong rừng làm những vị thuốc giân gian để chữa bệnh cho nhau. Trong buôn làng không có những thầy lang chuyên nghiệp, nhờ truyền miệng và mách nhau gần như ai cũng biết những loại lá, củ, quả, rễ cây thể chữa bệnh được khi có người ốm đau, bị thương.
Một vài phương thuốc mà đồng bào hay dùng để chữa bệnh:
- Để chữa mụn nhọt, hoặc mụn độc (đầu đinh) dùng nhựa cây “Thakhuê” để bôi.
- Đau bụng,lấy vỏ cây “M’nga tam” hoặc lấy rễ cây “Prăk” đun lên cho uống.
- Bệnh đau đầu dùng củ “Kuét – mui” mài ra lấy nước bôi vào hai bên thái dương.
- Nước lấy từ cây “Kerao-krai” cô đặc lại chữa đau răng.
- Chữa rắn độc cắn lấy quả “Ening” giã lấy nước uống, đắp bã lên vết cắn.
- Đun nước rễ cỏ tranh uống trị sốt rét.
- Bị thương, lấy củ cây “Ntraophi” giã đắp làm vết thương khô, mau lành…
Những nét khái quát về kinh tế xã hội và truyền thống đấu tranh của nhân dân các dân tộc Đắk Lắk nhằm giới thiệu một phần về cuộc sống của mãnh đất có địa bàn chiến lược quan trọng vô cùng gian lao và anh dũng dưới thời thực dân Pháp thống trị trước cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công.
Facebook
Tweet
Mail
Google-plus
Các tin khác