Trong năm 2019, huyện Buôn Đôn có 818 trẻ em được sinh ra, trong đó có 438 bé trai và 380 bé gái, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh là 115 bé trai/100 bé gái.
Một lớp học có số trẻ em trai nhiều hơn trẻ em gái.
Nguyên nhân tỷ lệ chênh lệch giới tính ở huyện Buôn Đôn là do người dân sử dụng những dịch vụ lựa chọn giới tính khi sinh hiện đại để can thiệp và chẩn đoán. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chênh lệch tỷ số giới tính.
Bên cạnh đó, do tâm lý mong muốn có con trai rất mãnh liệt bởi ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo là nguyên nhân cơ bản dẫn đến MCBGTKS. Trước đây, mong muốn có con trai chỉ được thực hiện chủ yếu bằng cách đẻ nhiều con cho đến khi có được con trai mới thôi. Tuy nhiên, khi các dịch vụ sinh sản bao gồm cả các dịch vụ siêu âm được sử dụng như một phần nội dung chăm sóc trước sinh. Các dịch vụ siêu âm thai nhi đã được sử dụng nhằm mục đích xác định giới tính và đã trở thành rất phổ biến và giá cả rất hợp lý đối với phụ nữ.
Cần tăng cường tư vấn, vận động người dân không lựa chọn giới tính thai nhi.
Hiện nay, nhiều người vừa muốn sinh ít con lại vừa muốn có con trai nên họ đã lạm dụng những tiến bộ khoa học công nghệ để thực hiện mong muốn này. Áp dụng từ lúc bắt đầu chuẩn bị có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn...); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y...); khi đã có thai (sử dụng siêu âm, chọc hút dịch ối...) để chẩn đoán và lựa chọn giới tính...