ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiêu chảy là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh và tử vong cao ở trẻ em, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) , năm 2003 có khoảng 1,87 triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong do tiêu chảy, trong đó 80% là trẻ từ 0-2 tuổi. Trung bình trẻ dưới 3 tuổi mắc từ 3-4 đợt tiêu chảy, thậm chí có những trẻ bị 8-9 đợt bệnh mỗi năm [1].
Nguyên nhân chính gây tử vong khi trẻ bị tiêu chảy là mất nước và điện giải, tiếp theo là suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng và tiêu chảy tạo thành một vòng xoắn bệnh lý: tiêu chảy dẫn đến suy dinh dưỡng và khi trẻ bị suy dinh dưỡng lại có nguy cơ bị tiêu chảy cao, gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ và là gánh nặng kinh tế đối với các quốc gia nghèo, đang hoặc kém phát triển, trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, tiêu chảy là một trong mười bệnh có tỉ suất mắc và chết cao trong nhiều thập niên qua, ước tính hàng năm nước ta có 12000 trường hợp tử vong do tiêu chảy. Số ca bệnh tiêu chảy năm 2012 ở 28 tỉnh miền Bắc là 433000, chỉ đứng sau số ca có triệu chứng cúm (870000). Số ca tử vong ước tính (2005) là 9600-12400 ca tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi do tiêu chảy. Trong năm 2005, ước tính chi phí điều trị trực tiếp cho những trường hợp tiêu chảy lên đến 3,1 triệu đô la Mỹ và 1,5 triệu đô la Mỹ cho những chi phí gián tiếp. Trong số trẻ dưới 5 tuổi, 15% sẽ phải nhập viện do tiêu chảy và 50% cần tới phòng khám [3].
Tại khoa Nội Bệnh viện ĐKKV 333, theo thống kê năm 2013, trong số 874 trẻ dưới 6 tuổi nhập viện thì có tới 205 trẻ mắc tiêu chảy cấp, chiếm 23,5% tổng số trẻ nhập viện. Tỷ lệ này hầu như không thay đổi trong các năm 2014 và 2015 với các con số lần lượt là 20,1% và 21,3%. Như vậy chứng tỏ cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thu thập thông tin về tình hình dịch tễ, yếu tố nguy cơ cũng như hiệu quả của công tác điều trị bệnh tiêu chảy cấp nhằm làm giảm tỷ lệ trẻ tiêu chảy phải nhập viện, giảm thời gian nằm viện, tăng cường kiến thức phòng bệnh và chăm sóc trẻ tiêu chảy cho cha mẹ bệnh nhi cũng như giảm tỷ lệ lạm dụng kháng sinh trong điều trị tiêu chảy ở trẻ em.
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu tình hình tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 6 tuổi điều trị nội trú tại bệnh viên ĐKKV 333 từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2016 nhằm một số mục tiêu như sau:
Mục tiêu tổng quát:
-
Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và dịch tễ của bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 6 tuổi điều trị nội trú tại Khoa Nội BVĐKKV 333.
-
Tình hình điều trị bệnh tiêu chảy ở trẻ em tại khoa nội BVĐKKV 333.
-
Những yếu tố liên quan đến thời gian nằm viện dài ngày.
Mục tiêu cụ thể:
-
Các đặc điểm trẻ bệnh tiêu chảy: giới tính, độ tuổi, yếu tố nguy cơ, mức độ tiêu chảy, tính chất phân, bệnh lý kèm theo, biến chứng của tiêu chảy.
-
Tương quan giữa mức độ tiêu chảy, tình trạng nhiễm khuẩn với điều trị.
-
Hiệu quả của Racedotril trong giảm số lần tiêu chảy ở trẻ em.
-
Sự tương quan giữa thời gian nằm viện dài ngày với việc sử dụng kháng sinh, mất nước, hạ kali máu và bệnh hô hấp kèm theo.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐỊNH NGHĨA
Tiêu chảy cấp là đi ngoài phân lỏng bất thường từ 3 lần trở lên trong vòng 24 giờ và kéo dài không quá 14 ngày.
1.2. DỊCH TỄ
1.2.1. Đường lây truyền:
Bệnh lây truyền qua đường phân - miệng: thức ăn, nước uống bị nhiễm bẩn do phân của người hoặc súc vật mang mầm bệnh là nguồn gây bệnh cho cộng đồng.
1.2.2. Yếu tố nguy cơ:
+ Tuổi: trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi hay bị mắc tiêu chảy do trẻ mới tập ăn sam, giảm kháng thể thụ động, kháng thể chủ động chưa hoàn thiện. Nguy cơ tiếp xúc mầm bệnh tăng lên khi trẻ biết bò và tăng hoạt động cá nhân.
+ SDD: Trẻ SDD dễ mắc tiêu chảy và các đợt tiêu chảy thường kéo dài hơn. Đặc biệt trẻ SDD nặng bị tiêu chảy có tỷ lệ tử vong rất cao.
+ Suy giảm miễn dịch: Trẻ suy giảm miễn dịch tạm thời hay gặp sau sởi, các đợt nhiễm virus khác như thuỷ đậu, quai bị, viêm gan hoặc suy giảm miễn dịch kéo dài (AIDS) dễ mắc tiêu chảy và tiêu chảy kéo dài.
+ Trẻ bú bình không đảm bảo vệ sinh, nguy cơ tiêu chảy cao gấp 10 lần so với trẻ bú mẹ hoàn toàn hoặc không bú bình.
+ Thức ăn bị ô nhiễm trước và sau khi chế biến.
+ Nước uống không sạch (không đun sôi hoặc để lâu), hoặc nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm.
+ Dụng cụ, tay người chế biến thức ăn bị nhiễm bệnh.
+ Xử lý chất thải đã nhiễm bệnh không đúng cách, quan niệm phân trẻ em không bẩn như phân người lớn.
+ Không có thói quen rửa tay sau khi đại tiện, trước khi chế biến thức ăn, trước khi cho trẻ ăn,…
1.2.3. Tác nhân gây bệnh
Vi rút
Rotavirus là tác nhân chính gây tiêu chảy nặng và đe doạ tính mạng cho trẻ dưới 2 tuổi. Trẻ lớn và người lớn ít bị tiêu chảy do Rotavirus.
Các vi rút khác có thể gây tiêu chảy: Adenovirus, Enterovirus, Norovirus.
Vi khuẩn
- Coli đường ruột Escherichia Coli (E.Coli)
Trong đó, E. Coli sinh độc tố ruột là tác nhân gây tiêu chảy cấp phân nước ở trẻ em.
- Trực khuẩn lỵ (Shigella): gây hội chứng lỵ phân máu.
- Campylobacter jejuni: gây bệnh ở trẻ nhỏ, tiêu chảy phân nước hoặc phân máu.
- Salmonella enterocolitica: gây tiêu chảy phân nước hoặc phân máu.
- Vi khuẩn tả Vibrrio cholerae: gây tiêu chảy xuất tiết bằng độc tố tả, mất nước và mất điện giải nặng ở cả trẻ em và người lớn.
Ký sinh trùng
- Entamoeba histolytica (Amíp): xâm nhập vào liên bào đại tràng, hồi tràng và gây bệnh khi ở thể hoạt động.
- Giardia lamblia: là đơn bào bám dính lên liên bào ruột non gây tiêu chảy do giảm hấp thu.
- Cryptosporidium: gây bệnh ở trẻ nhỏ, trẻ bị suy giảm miễn dịch. Tiêu chảy nặng và kéo dài ở trẻ SDD hoặc AIDS.
Nguyên nhân khác: sai lầm chế độ ăn, dị ứng thức ăn, sử dụng kháng sinh,...
1.2.4. Sinh bệnh học của tiêu chảy
Trong tình trạng bệnh lý, sự hấp thu nước và muối ở ruột non bị rối loạn, nhiều nước xuống đại tràng, không có khả năng tái hấp thu và gây tiêu chảy.
Ruột non bình thường: hấp thu nước nhiều, bài tiết ít
Ruột non khi bị tiêu chảy xuất tiết: giảm hấp thu và tăng bài tiết
Hình 1a, b: Hấp thu, bài tiết nước và điện giải ở liên bào ruột
1.3. PHÂN LOẠI TIÊU CHẢY THEO LÂM SÀNG
Khám lâm sàng quan trọng hơn so với việc tìm tác nhân gây bệnh hoặc các xét nghiệm.
Tiêu chảy cấp phân nước (bao gồm cả bệnh tả)
- Là đợt tiêu chảy cấp, thời gian không quá 14 ngày, thường khoảng 5 - 7 ngày, chiếm khoảng 80% tổng số các trường hợp tiêu chảy.
- Nguy hiểm chính là mất nước và điện giải.
- Gây giảm cân, thiếu hụt dinh dưỡng nếu không được tiếp tục nuôi dưỡng tốt.
Tiêu chảy cấp phân máu (hội chứng lỵ)
- Nguy hiểm chính là phá huỷ niêm mạc ruột và gây tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc.
- Nguy cơ gây nhiễm khuẩn huyết, suy dinh dưỡng và gây mất nước.
- Chiếm khoảng 10% - 15%, có nơi 20% tổng số các trường hợp tiêu chảy.
- Do vị trí tổn thương của niêm mạc ruột nên tính chất phân có thể khác nhau, nếu tổn thương ở đoạn trên ống tiêu hóa (ruột non) thì phân có nhiều nước lẫn máu nhầy (như nước rửa thịt). Nếu tổn thương ở thấp (đại tràng) phân ít nước, nhiều nhầy máu, có kèm theo mót rặn, đau quặn.
Tiêu chảy kéo dài
- Là đợt tiêu chảy cấp kéo dài liên tục trên 14 ngày, chiếm khoảng 5% - 10% tổng số các trường hợp tiêu chảy.
- Nguy hiểm chính là gây suy dinh dưỡng, nhiễm khuẩn nặng ngoài đường ruột và mất nước.
- Thường phân không nhiều nước, mức độ nặng nhẹ thất thường, kèm theo rối loạn hấp thụ nặng hơn tiêu chảy cấp.
Tiêu chảy kèm theo suy dinh dưỡng nặng (Marasmus hoặc Kwashiokor)
Nguy hiểm chính là nhiễm trùng toàn thân nặng, mất nước, suy tim, thiếu hụt vitamin và vi lượng.
1.4. ĐÁNH GIÁ TIÊU CHẢY
1.4.1. Đánh giá
Một trẻ bị tiêu chảy cần được đánh giá về:
- Mức độ mất nước và rối loạn điện giải
- Máu trong phân
- Thời gian kéo dài tiêu chảy
- Tình trạng suy dinh dưỡng - mức độ suy dinh dưỡng
- Các nhiễm khuẩn kèm theo
1.4.2. Đánh giá mức độ mất nước
Tất cả mọi trẻ bị tiêu chảy đều phải được phân loại mức độ mất nước. Có 3 mức độ mất nước:
- Mất nước nặng
- Có mất nước
- Không mất nước
Bảng 1: Xác định mức độ mất nước
Đánh giá
|
Lượng dịch mất đi tương đương % trọng lượng cơ thể
|
Lượng dịch mất đi tính theo ml/kg trọng lượng cơ thể
|
Không có dấu hiệu mất nước
|
< 5 %
|
< 50ml/kg
|
Có mất nước
|
5 - 10 %
|
50 - 100 ml/kg
|
Mất nước nặng
|
> 10 %
|
> 100 ml/kg
|
Bảng 2: Đánh giá và phân loại lâm sàng tiêu chảy mất nước
Đánh giá
|
Phân loại
|
Khi có hai trong các dấu hiệu sau:
- Li bì hoặc khó đánh thức.
- Mắt trũng.
- Không uống được nước hoặc uống kém
- Nếp véo da mất rất chậm.
|
Mất nước nặng
|
Khi có hai trong các dấu hiệu sau:
- Vật vã, kích thích.
- Mắt trũng.
- Uống háo hức, khát.
- Nếp véo da mất chậm.
|
Có mất nước
|
Không đủ các dấu hiệu để phân loại có mất nước hoặc mất nước nặng
|
Không mất nước
|
1.4.3. Đánh giá lỵ
Tiêu chảy có máu trong phân là lỵ. Khoảng 60% các trường hợp lỵ là do Shigella. Shigella là nguyên nhân của hầu hết các trường hợp lỵ nặng. Để tìm nguyên nhân thực sự của lỵ cần phải cấy phân, ít nhất sau 2 ngày mới biết kết quả, vì vậy dựa vào lâm sàng là chủ yếu.
1.5. XỬ TRÍ BỆNH TIÊU CHẢY CẤP
1.5.1. Mục tiêu
1. Dự phòng mất nước nếu chưa có dấu hiệu mất nước.
2. Điều trị mất nước khi có dấu hiệu mất nước.
3. Dự phòng SDD.
4. Giảm thời gian, mức độ của tiêu chảy và các đợt tiêu chảy trong tương lai bằng bổ sung kẽm.
1.5.2. Quyết định điều trị
Sau khi hoàn thành việc thăm khám, cần quyết định chọn phác đồ điều trị.
Lựa chọn phác đồ thích hợp dựa vào mức độ mất nước.
- Đối với trẻ không mất nước, lựa chọn phác đồ A.
- Đối với trẻ có mất nước, lựa chọn phác đồ B.
- Đối với trẻ mất nước nặng, lựa chọn phác đồ C.
- Nếu phân có máu (lỵ) cần điều trị kháng sinh.
- Nếu trẻ sốt, hướng dẫn bà mẹ làm hạ nhiệt bằng khăn ướt hoặc quạt cho trẻ, sau đó mới xem xét và điều trị các nguyên nhân khác (chẳng hạn như sốt rét).
1.5.3. Một số khuyến cáo mới trong điều trị tiêu chảy [1]
1.5.3.1. Tầm quan trọng của bổ sung kẽm trong điều trị tiêu chảy
Kẽm là một vi chất rất quan trọng cho sức khoẻ và sự phát triển của trẻ em. Kẽm cũng có vai trò rất quan trọng cho hệ thống miễn dịch của trẻ.
Trẻ tiêu chảy bị mất một lượng lớn kẽm trong quá trình bị bệnh. Bù lại lượng kẽm bị mất đi do tiêu chảy rất quan trọng để giúp trẻ sớm hồi phục bệnh (giảm thời gian, mức độ nặng của tiêu chảy), đồng thời giúp cho trẻ tăng cường sức khỏe và giảm nguy cơ mắc đợt tiêu chảy mới trong những tháng tiếp theo sau tiêu chảy.
1.5.3.2. Sử dụng ORS có độ thẩm thấu thấp trong điều trị tiêu chảy
Sự ra đời và hiệu quả của ORS nồng độ thẩm thấu thấp: Hiệu quả điều trị đối với trẻ em sẽ tốt hơn nếu giảm nồng độ của natri, glucose và độ thẩm thấu toàn phần xuống thấp hơn so với ORS chuẩn trước đây. ORS chuẩn trước đây có độ thẩm thấu cao so với huyết tương nên có thể gây tăng natri máu, đồng thời gia tăng khối lượng phân thải ra, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
Ưu điểm của ORS nồng độ thẩm thấu thấp làm giảm khối lượng tiêu chảy và nôn.
- An toàn, hiệu quả trong điều trị và phòng mất nước bất kể nguyên nhân gì.
ORS mới khi sử dụng tại các bệnh viện đã làm giảm nhu cầu truyền dịch không theo phác đồ, giảm khối lượng phân thải ra và ít nôn hơn. Không thấy có sự nguy hiểm khi có giảm natri máu khi so sánh với ORS chuẩn trước đây.
1.5.3.3. Sử dụng kháng sinh Ciprofloxacin (Quinolone) trong điều trị lỵ do Shigella
Do tình trạng vi khuẩn kháng axit Nalidixic đã xuất hiện và ngày càng tăng, nguy cơ gây kháng chéo với các thuốc khác trong nhóm Quinolone nên Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo chọn Ciprofloxacin để điều trị lỵ do Shigella.
Liều dùng 15mg/kg x 2lần/ngày x 3 ngày.
1.5.3.4. Sử dụng Vắc xin Rotavirus trong phòng bệnh.
1.5.3.5. Racecadotril:
Racecadotril, tác nhân ức chế enkephalinase, bảo tồn vai trò chống xuất tiết của enkephalins tại ruột, do đó làm giảm lượng phân bài xuất, giảm nguy cơ mất nước mà không ảnh hưởng đến nhu động ruột, không gây táo bón thứ phát, không ảnh hưởng lên hệ thần kinh trung ương. Racecadotril được sử dụng rộng rãi để điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em tại các nước Châu Âu và một số nước khác (kết hợp với liệu pháp bù dịch đường uống) (khuyến cáo của CDC 21/11/2003).
1.5.4. Kháng sinh và thuốc khác
Kháng sinh
- Chỉ sử dụng kháng sinh trong những trường hợp tiêu chảy phân máu, nghi ngờ tả có mất nước nặng và có xét nghiệm xác định nhiễm Giardia duoedenalis.
Thuốc chống tiêu chảy
Mặc dù một số thuốc đã được sử dụng phổ biến, nhưng không có hiệu quả và không nên sử dụng trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em, một số thuốc có thể gây nguy hiểm. Những sản phẩm đó gồm:
- Thuốc hấp phụ: Kaolin, attapulgite, smectit, than hoạt cholestyramine,.. Các thuốc này làm cải thiện việc điều trị tiêu chảy dựa trên khả năng làm săn gây táo và bất hoạt độc tố của vi khuẩn hoặc những chất khác gây ra tiêu chảy. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng lâm sàng nào trong chỉ định điều trị thường quy tiêu chảy cấp ở trẻ em.
- Thuốc giảm nhu động: Loperamid, opium, diphenoxilate, atropine, paregoric. Những thuốc này có thể làm giảm số lần đi tiêu chảy ở người lớn nhưng không làm giảm đáng kể mức độ tiêu chảy ở trẻ em, hơn thế nữa những thuốc này còn gây ra liệt ruột, làm cho thời gian bị tiêu chảy kéo dài. Thuốc còn có tác dụng an thần, làm cho trẻ khó uống dung dịch ORS và thậm chí gây các tổn thương hệ thần kinh trung ương.
- Bismuth subsalicylate: Thuốc làm giảm lượng phân tiêu chảy trên người lớn bị tiêu chảy do ăn thức ăn lạ như khi đi du lịch. Trong thực tế, thuốc này ít có tác dụng với trẻ bị tiêu chảy.
- Các thuốc hỗn hợp: những thuốc phối hợp các tính năng ở trên (hấp phụ, chống nhu động, kháng sinh và những thuốc khác) đều không phù hợp, giá đắt, nhiều tác dụng phụ. Vì vậy, không nên dùng cho trẻ bị tiêu chảy.
- Thuốc chống nôn: những thuốc thuộc nhóm này như prochlorperzin và chlorpromazin không được sử dụng cho trẻ nhỏ và trẻ bị tiêu chảy vì thuốc làm an thần, gây ngủ, hạn chế việc uống ORS của trẻ. Hơn nữa, khi trẻ được bù đủ dịch trẻ sẽ hết nôn.
- Các thuốc kích thích tim mạch: sốc xảy ra ở trẻ bị tiêu chảy do mất dịch và giảm khối lượng. Do vậy, việc điều trị sốc chủ yếu là truyền dịch tĩnh mạch nhanh và điều chỉnh rối loạn điện giải. Không được sử dụng các thuốc kích thích tim và vận mạch (như adrenaline, nicotinamide).
- Máu và plasma: máu, plasma hoặc plasma tổng hợp không được chỉ định cho trẻ mất nước do tiêu chảy. Những trẻ này chỉ cần bù lại nhiều dịch và cân bằng điện giải. Tuy vậy, các chế phẩm của máu chỉ dùng khi trẻ bị giảm khối lượng do sốc nhiễm khuẩn.
- Steroids: không có tác dụng và không bao giờ chỉ định cho trẻ tiêu chảy.
- Thuốc tẩy: những loại thuốc này làm cho tiêu chảy trầm trọng hơn.
1.6. PHÒNG BỆNH TIÊU CHẢY
Điều trị tiêu chảy đúng làm giảm nguy cơ tử vong nhưng không làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy. Cơ sở y tế là nơi tốt nhất để điều trị và hướng dẫn các thành viên của gia đình trẻ, giúp họ thực hiện các biện pháp phòng bệnh tiêu chảy. Khi điều trị tiêu chảy bà mẹ sẽ là người tiếp nhận những thông tin này. Để tránh đưa quá nhiều thông tin cho bà mẹ, chỉ nên nhấn mạnh 1 hoặc 2 điểm thích hợp nhất với thực tế của bà mẹ và đứa trẻ.
1.6.1. Nuôi con bằng sữa mẹ
Trong 6 tháng đầu đời, trẻ cần được bú mẹ hoàn toàn, có nghĩa là một đứa trẻ khoẻ mạnh cần được bú sữa mẹ và không phải ăn hoặc uống thêm thứ gì khác như nước, các loại nước chè, nước hoa quả, nước cháo, sữa động vật hoặc thức ăn nhân tạo,... Trẻ được bú mẹ hoàn toàn sẽ ít mắc bệnh tiêu chảy và tỉ lệ tử vong thấp hơn so với trẻ không được bú mẹ hoặc không được bú mẹ hoàn toàn. Bú mẹ cũng làm giảm nguy cơ dị ứng sớm, đồng thời cũng tăng sức đề kháng chống lại các bệnh nhiễm trùng, làm giảm các đợt nhiễm trùng khác (ví dụ : viêm phổi). Nên cho trẻ bú mẹ đến khi trẻ được 2 tuổi. Cho trẻ trẻ bú mẹ càng sớm càng tốt ngay sau sinh mà không cho ăn bất cứ loại thức ăn nào khác.
1.6.2. Cải thiện nuôi dưỡng bằng thức ăn bổ sung (ăn sam)
Thức ăn bổ sung nên cho ăn khi trẻ 6 tháng tuổi. Tuy nhiên, có thể cho trẻ ăn thức ăn bổ sung vào bất cứ thời gian nào sau 4 tháng tuổi nếu trẻ phát triển kém. Thực hành ăn sam tốt bao gồm lựa chọn thức ăn giầu chất dinh dưỡng và chế biến hợp vệ sinh. Lựa chọn thức ăn bổ sung dựa vào chế độ ăn và thực phẩm an toàn sẵn có tại địa phương. Cùng với sữa mẹ hoặc sữa khác, phải cho trẻ ăn thức ăn nghiền nhỏ và bổ sung thêm trứng, thịt, cá và hoa quả. Những thức ăn khác phải nấu nhừ, có rau và cho thêm dầu ăn (5 -10ml/bữa).
Ngoài việc thuyết phục bà mẹ cho trẻ bú mẹ hoàn toàn và thực hành ăn sam, cán bộ y tế cần giới thiệu cách sử dụng biểu đồ tăng trưởng để theo dõi cân nặng của trẻ. Phải cân và ghi vào biểu đồ tăng trưởng trước khi cho trẻ rời cơ sở y tế.
1.6.3. Sử dụng nước sạch
Có thể giảm nguy cơ tiêu chảy bằng sử dụng nước sạch. Gia đình cần:
- Chọn nguồn nước sạch nhất có thể.
- Không được tắm, giặt và đại tiện gần nguồn nước. Xây hố xí cách nguồn nước ít nhất 10 mét ở phía đất thấp hơn.
- Không cho động vật đến gần nguồn nước.
- Chứa nước trong chum, vại được rửa sạch hàng ngày, có nắp đậy. Không để người và động vật uống nước trực tiếp ở chum vại. Dùng gáo cán dài để múc nước, không chạm tay vào nước.
- Nếu sẵn chất đốt thì sử dụng nước đã đun sôi cho trẻ uống và chế biến thức ăn. Nước chỉ cần đun sôi chứ không cần đun sôi kéo dài tốn chất đốt.
Khối lượng và chất lượng nước dự trữ trong gia đình có thể ảnh hưởng tới tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy. Nếu có thể thì để một lượng nước lớn sử dụng cho vệ sinh, còn nguồn nước sạch nhất thì chứa riêng dùng để uống và chế biến thức ăn.
1.6.4. Rửa tay thường quy
Tất cả các nguyên nhân gây tiêu chảy được truyền bằng tay khi bị nhiễm bẩn phân. Nguy cơ của tiêu chảy giảm đi khi thành viên gia đình thực hành rửa tay. Tất cả thành viên trong gia đình cần phải rửa tay của họ thật kỹ sau khi đi ngoài, sau khi vệ sinh cho trẻ đi ngoài, sau khi dọn phân cho trẻ, trước khi chuẩn bị thức ăn và trước khi ăn. Rửa tay sạch đòi hỏi phải sử dụng xà phòng hoặc chất thay thế sẵn có trong vùng như tro, có đủ nước để rửa tay thật kỹ.
1.6.5. Thực phẩm an toàn
Thực phẩm dễ nhiễm các tác nhân gây tiêu chảy trong tất cả các khâu từ sản xuất đến chế biến thức ăn bao gồm: nuôi trồng có sử dụng phân tươi, mua bán nơi công cộng (chợ), chế biến thức ăn tại nhà hoặc quán ăn và bảo quản thức ăn sau chế biến.
Thực hành an toàn vệ sinh thực phẩm cá nhân cũng cần được nhấn mạnh. Khi tuyên truyền, giáo dục sức khoẻ cần tập trung vào thông điệp chính về chế biến và sử dụng thực phẩm.
- Không ăn thực phẩm sống, trừ những rau quả đã bóc vỏ và phải ăn ngay.
- Rửa tay kỹ với xà phòng sau đi ngoài và trước khi chế biến thức ăn hoặc ăn.
- Nấu kỹ thức ăn.
- Ăn thức ăn nóng hoặc hâm kỹ lại trước khi ăn.
- Rửa sạch và làm khô tất cả dụng cụ trước, sau khi nấu và ăn.
- Bảo quản thức ăn đã chế biến vào dụng cụ sạch riêng biệt để tránh nhiễm bẩn.
- Sử dụng lồng bàn để tránh ruồi.
1.6.6. Sử dụng hố xí và xử lý phân an toàn
Môi trường mất vệ sinh làm lan rộng các tác nhân gây tiêu chảy. Những tác nhân này được bài tiết từ phân làm lây nhiễm cho người và động vật. Xử lý phân đúng hạn chế lây nhiễm. Phân làm nhiễm bẩn nguồn nước nơi trẻ chơi, nơi bà mẹ giặt quần áo và nơi lấy nước dùng cho gia đình. Các gia đình cần quan tâm đến chất lượng và vệ sinh của hố xí. Nếu hố xí không đạt tiêu chuẩn thì phải đại tiện vào hố và chôn phân ngay sau khi đại tiện. Phân của trẻ em thường chứa tác nhân gây tiêu chảy, phải thu dọn, đổ vào hố xí hoặc chôn ngay sau khi đi ngoài.
1.6.7. Phòng bệnh bằng vắc xin
- Phải tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin theo lịch tiêm chủng mở rộng.
- Tiêm phòng sởi có thể giảm tỷ lệ mắc và mức độ trầm trọng của tiêu chảy. Tất cả trẻ em cần tiêm phòng sởi ở độ tuổi khuyến nghị.
- Rotavirus: đã triển khai ở các nước phát triển cho thấy hiệu quả phòng ngừa tiêu chảy do rotavirus rất tốt. Hiện nay, có nhiều dạng chế phẩm vắc xin phòng rotavirus, liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất và Chương trình tiêm chủng quốc gia. Từ tháng 6 năm 2009, Tổ chức Y tế thế giới đã chính thức khuyến cáo đưa vắc xin Rota vi rút vào trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em trên toàn cầu. Việt Nam đang cân nhắc việc đưa vắc xin phòng rota vi rút vào trong chương trình Tiêm chủng mở rộng trong tương lai.
- Vắc xin tả uống và vắc xin thương hàn được chỉ định sử dụng cho những vùng có nguy cơ dịch theo chỉ đạo của Cục Y tế Dự phòng và Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia.
Ngoài ra còn một số vắc xin khác như vắc xin lỵ, vắc xin E. coli đang được nghiên cứu sản xuất và sẽ được đưa vào sử dụng trong tương lai.
1.7. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ BỆNH TIÊU CHẢY TRÊN TRẺ EM
1.7.1. Bệnh tiêu chảy cấp tại Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2005 : Lâm sàng và Dịch tễ học [4]:
Mục tiêu: Xác định các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng của tiêu chảy cấp trẻ em nhập viện trong năm 2005.
Phương pháp: Cắt ngang mô tả. Địa điểm : Bệnh viện Nhi đồng 2 , TP. HCM.
Đối tượng nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu gồm 632 lượt bệnh nhân tiêu chảy cấp hoặc/ và tiêu chảy nhiễm khuẩn, tuổi từ 1 tháng trở lên, được chọn ngẫu nhiên hệ thống từ những bệnh án lưu trữ trong năm 2005.
Kết quả: Tiêu chảy cấp xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, đa số dưới 4 tuổi, và bệnh thường xảy ra vào mùa lễ hội, từ 2 tháng cuối năm trước qua tháng đầu năm sau. Hầu hết được nhập viện sớm trước ngày thứ 4 của bệnh. Tỉ lệ tiêu chảy nhiễm khuẩn thấp (10,8%), và có sự tương thích giữa chẩn đoán trên lâm sàng với sự hiện diện của bạch cầu trong phân. Điều trị có hiệu quả cao, ít biến chứng và đặc biệt không có tử vong. Tuy nhiên, tỉ lệ sử dụng kháng sinh chưa đúng chỉ định còn cao. Thời gian nằm viện trung bình là 4,9 ± 3 ngày, và có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thời gian nằm viện dài ngày với sử dụng kháng sinh, truyền dịch, viêm phế quản phổi kèm theo, mất nước, và hạ kali máu.
Kết luận : Những đặc điểm dịch tễ học của tiêu chảy cấp trẻ em không thay đổi so với các năm trước. Ở những cơ sở thiếu phương tiện xét nghiệm vi khuẩn học, định hướng chẩn đoán tiêu chảy nhiễm khuẩn có thể dựa vào sự hiện diện của bạch cầu trong phân. Cần lưu ý việc sử dụng kháng sinh khi không có bằng chứng nhiễm khuẩn.
1.7.2. Nghiên cứu các yếu tố liên quan đến tiêu chảy của trẻ dưới 5 tuổi tại thị xã Hương Thuỷ tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2011 [6]
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc tiêu chảy ở trẻ dưới 5 tuổi tại thị xã Hương Thuỷ và tìm hiểu các yếu tố liên quan đến tiêu chảy ở trẻ dưới 5 tuổi.
Phương pháp: Điều tra cắt ngang mô tả, địa điểm tại thị xã Hương Thuỷ.
Đối tượng nghiên cứu: Bà mẹ đang chăm sóc con dưới 5 tuổi và trẻ dưới 5 tuổi ở 6 xã, phường khác nhau của thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế được chọn ngẫu nhiên.
Kết quả nghiên cứu: Qua nghiên cứu 413 trẻ dưới 5 tuổi có 53 trẻ mắc tiêu chảy chiếm tỷ lệ 12,8% trong đó nam chiếm 10,7%, nữ chiếm 15,4%. Tỷ lệ tiêu chảy của trẻ dưới 24 tháng chiếm tỷ lệ cao hơn. Trong nghiên cứu này các yếu tố liên quan đến tiêu chảy là:nghề nghiệp của mẹ, trình độ học vấn của mẹ, tuổi của mẹ, số con trong gia đình, vệ sinh nguồn nước, vệ sinh hố xí, kiến thức của bà mẹ về bệnh tiêu chảy, kiến thức của bà mẹ về phòng bệnh tiêu chảy, kiến thức bà mẹ với biện pháp xử lý tại nhà khi trẻ tiêu chảy, thời điểm ăn dặm, vệ sinh đầu vú trước khi cho trẻ bú và thói quen rửa tay của bà mẹ.
Kết luận: Kiến thức, thái độ, thực hành của các bà mẹ còn thấp. Có mối tương quan giữa độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn của mẹ, điều kiện vệ sinh môi trường với tiêu chảy của trẻ dưới 5 tuổi.
1.7.3. Nghiên cứu tình hình tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Nghĩa An huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi năm 2007[5]:
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện mắc tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Nghĩa An huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tiêu chảy của đối tượng trên.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu ngang mô tả xác định tỷ lệ hiện mắc và các yếu tố liên quan đến tiêu chảy.
Kết quả nghiên cứu: cho thấy tỷ lệ hiện mắc tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Nghĩa An là 33.71%. Nhóm trẻ dưới 12 tháng tuổi hiện mắc tiêu chảy cao nhất chiếm 70,97%, ở nam mắc tiêu chảy cao hơn nữ ( 35,80% và 31,61%). Các yếu tố liên quan: Tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn của mẹ; mức kinh tế gia đình; nguồn nước sinh hoạt; tính chất vệ sinh hố xí; thói quen vệ sinh; dinh dưỡng; mức hiểu biết chung về phòng chống tiêu chảy của mẹ đều có liên quan đến tiêu chảy của trẻ với p < 0,05.
1.7.4. Nghiên cứu về hiệu quả của Racecadotril trong điều trị tiêu chảy ở trẻ em [1]:
Năm 2000 Eduardo Salazar- Lindo và cộng sự nghiên cứu 135 trẻ tiêu chảy cấp dùng Racecadotril và giả dược thu được kết quả như sau: Racecadotril làm giảm lượng phân trong vòng 48 h (p< 0,001), giảm số lần tiêu chảy (p < 0,001), giảm lượng dịch phải bù bằng đường uống (p < 0.001)
CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Các bệnh nhân trẻ em trong độ tuổi từ 0- 6 tuổi được chẩn đoán tiêu chảy cấp điều trị nội trú tại khoa Nội BVĐKKV 333 từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2016.
2.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Số liệu được thu thập từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2016 tại khoa Nội BVĐKKV 333.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cắt ngang mô tả
2.4. CỠ MẪU
Tính theo công thức n=Z 2(1-α)P(1-P)/ε
Theo nghiên cứu của Bệnh viện Nhi đồng II Tp. Hồ Chí Minh tỉ lệ tiêu chảy nhiễm trùng tên trẻ em khoảng 10%(P=0,1, Z tra theo bảng C với độ tin cậy α=95% thì Z=1,96, độ chính xác tương đối ε =5%. Kết quả n=138 bệnh nhân.
Vậy cỡ mẫu tối thiểu là 138 bệnh nhân.
2.5. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
Bảng thu thập số liệu
2.6. PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU
Phần mềm thống kê SPSS 16.0
2.7. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu này nhằm nâng cao chất lượng điều trị bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 6 tuổi, nâng cao nhận thức của các bậc phụ huynh trong việc phòng bệnh và chăm sóc trẻ khi bị tiêu chảy, giúp đội ngũ nhân viên y tế có thêm dữ liệu thông tin về hiện trạng bệnh têu chảy tại cơ sở điều trị, nghiên cứu này hoàn toàn không vi phạm các quy định về y đức trong nghiên cứu khoa học.
CHƯƠNG III: DỰ KIẾN KẾT QUẢ
3.1. Đặc tính của mẫu nghiên cứu:
Đặc tính
|
n (%)
|
Giới tính
|
Nữ
|
|
Nam
|
|
Dân tộc
|
Kinh
|
|
Đồng bào DT thiểu số
|
|
Nơi cư trú
|
Xã
|
|
Thị trấn
|
|
Tháng tuổi
|
0-4
|
|
5-12
|
|
13-24
|
|
> 24
|
|
Theo con số thống kê từ các năm 2014, 2015, dự tính tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy cấp ở cả 2 giới sẽ tương đương nhau, tỷ lệ trẻ là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 20%, đa số trẻ đến từ các xã, chiếm 65%, lứa tuổi mắc nhiều nhất sẽ là từ 3 tuổi trở xuống.
3.2. Thời điểm nhập viện:
Tháng
|
n (%)
|
1
|
|
2
|
|
3
|
|
4
|
|
5
|
|
6
|
|
7
|
|
8
|
|
9
|
|
Bệnh tiêu chảy cấp diễn ra quanh năm nhưng dự đoán đỉnh cao sẽ vào những tháng đầu năm vì thời điểm này thời tiết thường lạnh hơn, là dịp lễ tết, và là mùa tiêu chảy do Rotavirus, số lượng trẻ bị tiêu chảy thấp nhất dự kiến sẽ là vào những tháng 8-9 vì đây là mùa trẻ bắt đầu nhập học.
3.3. Nuôi dưỡng và chăm sóc
Đặc điểm
|
N (%)
|
Bú sữa mẹ hoàn toàn đến 4 tháng tuổi
|
|
Bú bình
|
|
Ăn dặm từ tháng thứ 4
|
|
Đi mẫu giáo/ nhà trẻ
|
|
Thói quen rửa tay trước khi chế biến thức ăn cho trẻ
|
|
Thói quen rửa tay trước khi cho trẻ ăn
|
|
Thói quen rửa tay cho trẻ trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh
|
|
Học vấn của mẹ
|
Tiểu học
|
|
Trung học
|
|
Trung học PT
|
|
Trẻ đã được chủng ngừa Rotavirus
|
|
3.4. Đặc điểm lâm sàng lúc nhập viện:
Đặc điểm lâm sàng
|
N (%)
|
Số ngày tiêu chảy trước nhập viện
|
0-3
|
|
4-7
|
|
8-14
|
|
Số lần tiêu chảy trước nhập viện
|
0-6
|
|
7-10
|
|
>10
|
|
Tính chất phân
|
Nhiều nước
|
|
Phân nhày
|
|
Có máu
|
|
Sốt
|
|
Mót rặn
|
|
Ói
|
|
Đau bụng
|
|
Mất nước
|
|
Vẻ nhiễm trùng
|
|
Sụt cân
|
|
Bệnh tiêu chảy thường được phụ huynh phát hiện và chú ý nên trẻ thường được đưa đến khám và nhập viện sớm trong vòng 3 ngày đầu của bệnh chiếm đa số. Tỷ lệ trẻ có hội chứng lỵ trên lâm sàng với phân có máu, mót rặn chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Trẻ có dấu hiệu mất nước chiếm khoảng 20% tổng số trẻ tiêu chảy.
3.5. Xét nghiệm lúc nhập viện:
Xét nghiệm
|
N (%)
|
Bạch cầu/ phân (+)
|
|
Hồng cầu/phân (+)
|
|
Giardia, nấm men/phân (+)
|
|
Amib/phân (+)
|
|
Bạch cầu/ máu tăng
|
|
Trong nghiên cứu của BV Nhi Đồng 2 thì mặc dù các mẫu phân đều được cấy nhưng tỷ lệ dương tính thấp (3,3%), nên các dấu hiệu lâm sàng đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán tiêu chảy nhiễm trùng, đồng thời có sự tương ứng giữa chẩn đoán tiêu chảy nhiễm trùng với sự hiện diện của bạch cầu trong phân, vì vậy chúng tôi dự đoán kết quả soi phân có bạch cầu chiếm khoảng 10%.
3.6. Thời gian nằm viện:
Đa số tiêu chảy cấp là do virus và có xu hướng tự giới hạn nên thời gian nằm viện thường ngắn, trung bình dự kiến khoảng 4 ngày, một số trường hợp chiếm tỷ lệ khoảng 10% nằm viện hơn 7 ngày thường do có bệnh lý kèm theo như viêm phế quản phổi hoặc có biến chứng như mất nước.
3.7. Nguyên nhân và bệnh lý đi kèm:
|
|
N (%)
|
Nguyên nhân
|
Do vi khuẩn
|
|
Do virus
|
|
Do kháng sinh
|
|
Dị ứng sữa
|
|
Bệnh lý kèm theo
|
Viêm hô hấp trên
|
|
Viêm phế quản phổi
|
|
Viêm tai giữa
|
|
Suy dinh dưỡng
|
|
Nhiễm khuẩn khác
|
|
Theo quan sát của chúng tôi, trong những năm 2014, 2015, số trẻ tiêu chảy cấp kèm theo các bệnh lý khác đặc biệt là viêm hô hấp trên hoặc viêm phế quản phổi khá cao, dự đoán con số này trong năm 2015 khoảng 50%. Tỷ lệ trẻ chẩn đoán tiêu chảy do virus khoảng 60-70%, trẻ chẩn đoán tiêu chảy nhiễm trùng và Lỵ chiếm khoảng 10-15%.
3.8. Liên quan giữa lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán:
Yếu tố liên quan
|
Chẩn đoán TCNK
|
p
|
Có , n (%)
|
|
Sốt
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
Mót rặn
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
Mất nước
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
BC máu tăng
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
BC/phân (+)
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
HC/ phân (+)
|
Có
|
|
|
|
Không
|
|
|
Dự kiến những yếu tố liến quan giữa chẩn đoán tiêu chảy nhiễm khuẩn với lâm sàng và cận lâm sàng sẽ là sốt và kết quả soi phân có bạch cầu.
3.9. Điều trị kháng sinh
Chỉ định
|
N (%)
|
Phù hợp
|
|
Không phù hợp
|
|
Theo quan sát năm 2015, đa số trẻ tiêu chảy cấp phải sử dụng kháng sinh để điều trị các nhiễm khuẩn phối hợp, tuy nhiên tỷ lệ sử dụng kháng sinh chưa phù hợp trong điều trị tiêu chảy cấp đơn thuần khá cao, khoảng 20%, trong năm 2016, chúng tôi dự đoán con số này ở khoảng 10-15%.
3.10. Điều trị nâng đỡ:
|
N (%)
|
Truyền dịch
|
Vì mất nước C
|
|
|
Vì ói nhiều
|
|
|
Bỏ ăn uống
|
|
Kẽm- Probiotics
|
|
3.11. Các yếu tố liên quan tới thời gian nằm viện:
|
Thời gian nằm viện
|
p
|
0-3
|
4-7
|
>7
|
|
n (%)
|
|
Dùng kháng sinh
|
|
|
|
|
Truyền dịch
|
|
|
|
|
Viêm phế quản phổi
|
|
|
|
|
Mất nước
|
|
|
|
|
Thời gian nằm viện trung bình
|
Trong nghiên cứu này chúng tôi hy vọng sẽ tìm ra mối liến quan giữa thời gian nằm viện với việc sử dụng kháng sinh, có viêm phế quản phổi kèm theo và có biến chứng như mất nước, phải truyền dịch.
CHƯƠNG IV: DỰ KIẾN BÀN LUẬN
4.1. Đặc tính của mẫu nghiên cứu:
Do đặc điểm BVĐKKV 333 đóng tại địa bàn xã vùng cao, có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, với những tập quán chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ còn lạc hậu gây không ít bất lợi cho công tác chăm sóc và điều trị của nhân viên y tế, đây cũng là một trong những điểm chúng tôi muốn nhấn mạnh để lồng ghép các chương trình tư vấn, hướng dẫn và thực hành cách chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ nhỏ cho người dân, nhằm hạn chế số trẻ em bị tiêu chảy cấp phải nhập viện và giảm chi phí y tế cho xã hội.
4.2. Thời điểm nhập viện:
Thông qua nghiên cứu, xác định được các tháng cao điểm trong năm thường xảy ra bệnh tiêu chảy, chúng tôi sẽ có các biện pháp và kế hoạch để chủ động nhân lực, thuốc, vật tư y tế cũng như khuyến cáo cho phụ huynh cách thức phòng tránh bệnh để đạt hiệu quả cao nhất.
4.3. Nuôi dưỡng và chăm sóc:
Thông qua khảo sát trong nghiên cứu về kiến thức và hành vi chăm sóc trẻ nhỏ, chúng tôi có thể lồng ghép các chương trình hướng dẫn cách chăm sóc trẻ đúng cách để phòng ngừa bệnh tiêu chảy.
4.4. Các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của mẫu nghiên cứu:
Do tác nhân gây bệnh tiêu chảy đa số là virus nên bệnh thường tự giới hạn, do đó triệu chứng lâm sàng chủ yếu là tiêu chảy phân nước, ít khi có trẻ tiêu phân nhày máu. Việc dựa vào các dấu hiệu lâm sàng là đủ để các bác sĩ điều trị quyết định chọn lựa chiến lược điều trị, tuy nhiên trong một số ít trường hợp cần dựa vào kết quả soi hoặc cấy phân để quyết định chọn lựa kháng sinh cho phù hợp. Với điều kiện như BVĐKKV 333 chưa thực hiện được kỹ thuật cấy phân thì việc soi tươi phân rất hữu ích cho định hướng chẩn đoán tiêu chảy nhiễm khuẩn và nên được thực hiện thường quy ở trẻ em bị tiêu chảy.
4.5. Các bệnh phối hợp và biến chứng của bệnh tiêu chảy:
Các nhiễm khuẩn ngoài ruột như viêm phổi, viêm tai giữa, viêm hô hấp trên có thể gây tiêu chảy mặc dù mối liên hệ chưa được biết rõ, tuy nhiên tiêu chảy gây ra do những bệnh này thường nhẹ và tự giới hạn. Biến chứng thường gặp nhất của tiêu chảy cấp là mất nước, tuy nhiên tình trạng mất nước thường nhẹ, có thể do trẻ được nhập viện sớm và điều trị kịp thời.
4.6. Điều trị:
Điều trị kháng sinh không đúng có thể kèo dài tình trạng mang khuẩn. Cúng tôi muốn thông qua nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trong của việc sử dụng kháng sinh phù hợp, tránh việc sử dụng kháng sinh một cách bao vây.
Việc sử dụng Kẽm và Probiotics đã được chứng minh có hiệu quả trong cải thiện triệu chứng và phòng ngừa tiêu chảy tái phát ở trẻ em, do đó việc sử dụng những thuốc này trở thành thường quy cho bệnh tiêu chảy tại khoa chúng tôi.
4.7. Những điểm mạnh và yếu của đề tài:
Nghiên cứu được tiến hành tỉ mỉ, thu thập rất nhiều thông tin từ dịch tễ, kiến thức thái độ của phụ huynh trong chăm sóc trẻ tiêu chảy, những triệu chứng lâm sàng phổ biến và kết quả cận lâm sàng, quá trình điều trị cũng như kết quả điều trị cũng được thống kê một cách chi tiết nhằm đem lại thông tin một cách chính xác nhất về bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 6 tuổi đang điều trị tại BVĐKKV 333. Từ đó, chúng ta có dữ kiện để theo dõi, đánh giá , phòng bệnh cũng như khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong công tác chăm sóc và điều trị bệnh tiêu chảy tại khoa Nội nói riêng và BVĐKKV 333 nói chung.
Tuy nhiên hạn chế của đề tài là tiến hành trong 9 tháng đầu năm, chưa khảo sát hết được thời điểm của 1 năm, nhất là những tháng cuối năm là những tháng cao điểm của dịch tiêu chảy do virus liên quan thời tiết lạnh như Rotavirus. Bên cạnh đó do tình trạng thiếu thuốc nên việc khảo sát hiệu quả của Racecadotril- một thuốc vốn được sự dụng rộng rãi ở châu Âu để giảm số lần tiêu chảy ở trẻ em mà chúng tôi muốn áp dụng trong nghiên cứu cũng chưa thể thực hiện được.
CHƯƠNG V: DỰ KIẾN KẾT LUẬN
-
Các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng của tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 6 tuổi điều trị nội trú tại BVĐKKV 333: Tiêu chảy cấp xảy ra ở trẻ nam tương đương trẻ nữ, đa số dưới 3 tuổi, bệnh thường xảy ra vào mùa đông xuân. Hầu hết được nhập viện trong vòng 3 ngày đầu. Tỷ lệ tiêu chảy nhiễm khuẩn thấp (Khoảng 10%), tỷ lệ trẻ mất nước khoảng 20%.
-
Tương quan giữa lâm sàng, cận lâm sàng và chẩn đoán tiêu chảy cấp: Có sự tương quan giữa chẩn đoán trên lâm sàng với sự hiện diện của bạch cầu trong phân.
-
Những yếu tố làm kéo dài thời gian tiêu chảy cấp ở trẻ em: Sử dụng kháng sinh, viêm phế quản phổi kèm theo, mất nước, truyền dịch.
CHƯƠNG VI: KIẾN NGHỊ
-
Thành lập đơn vị huấn luyện kỹ năng phòng ngừa và chăm sóc trẻ tiêu chảy cho phụ huynh tại khoa Nội nhằm hướng dẫn kiến thức và những kỹ năng thực hành cơ bản như: cách cho trẻ uống ORS tại nhà, cách chế biến thức ăn đủ dinh dưỡng cho trẻ tiêu chảy, chăm sóc trẻ tiêu chảy hợp vệ sinh, cách rửa tay sạch đúng cách, kiến thức về lợi ích của chủng ngừa Rotavirus.
-
Chuẩn hóa xét nghiệm soi tươi phân để làm căn cứ định hướng cho chẩn đoán lâm sàng, soi phân trở thành xét nghiệm thường quy cho bệnh nhân bị tiêu chảy cấp, hạn chế tối đa việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh tiêu chảy.
-
Ứng dụng Racecadotril trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em là một biện pháp điều trị mới đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới nhằm làm giảm số lần tiêu chảy và khối lượng phân trong một đợt tiêu chảy cấp ở trẻ em.
Số lưu trữ........... Ngày nhập viện: ....................... Giới tính:........... Tuổi:............... Cân nặng lúc nhập viện: ........... (Gr).
Dân tộc thiểu số: ...........................
Ăn dặm từ tháng thứ …… Nghề nghiệp mẹ ……….
THCS □
THPT □
Có Không
Trẻ bú bình □ □
Nuôi tại nhà □ □
Đi nhà trẻ □ □
Thói quen RTS trước khi cho trẻ ăn □ □
Thói quen RTS trước khi chế biến t/ă □ □
Thói quen RTS cho trẻ trước và sau khi đi đi vệ sinh. □ □
Đã tiêm phòng Rotavirus □ □
Điều trị trước nhập viện: Kháng sinh………….. Số ngày dùng……..
Uống ORS………….. Số ngày dùng……..
Có Không
Sốt □ □
Có Không