14/05/2024 07:13
Bệnh sởi (Measles) là bệnh truyền nhiễm gây dịch do vi rút sởi gây nên. Bệnh chủ yếu gặp ở trẻ em dưới 5 tuổi, hay xảy ra vào mùa đông xuân, tuy nhiên trong vài năm gần đây bệnh sởi xảy ra quanh năm; bệnh có thể xuất hiện ở người lớn do chưa được tiêm phòng hoặc đã tiêm phòng nhưng chưa được tiêm đầy đủ.
Đường lây truyền của bệnh sởi: lây truyền qua đường hô hấp do hít phải các dịch tiết mũi họng của người bệnh bắn ra không khí khi người bệnh ho, hắt hơi, nói chuyện (bán kính khoảng 1 mét)… hoặc tiếp xúc trực tiếp với chất tiết đường mũi họng của người bệnh (những giọt bắn đường hô hấp này có thể rơi xuống một bề mặt nào đó như mặt bàn, điện thoại… người bệnh sờ vào những nơi này và đưa tay lên mũi hay miệng).
Bệnh dễ lây lan ở những khu vực đông người như: nhà trẻ, trường học, khu đông dân cư… chính vì vậy bệnh dễ lây thành dịch. Khoảng 90% những người tiếp xúc với người bệnh sẽ bị lây sởi nếu chưa chích ngừa hoặc chưa từng mắc bệnh.
Giai đoạn người bệnh có khả năng lây bệnh cho người khác là từ 5 ngày trước cho tới 5 ngày sau giai đoạn phát ban của người bệnh.
Triệu chứng của bệnh sởi, có thể gặp 1 trong 2 thể sau:
Đối với thể điển hình:
Giai đoạn ủ bệnh: từ 7-21 ngày (trung bình 10 ngày).
Giai đoạn khởi phát (giai đoạn viêm long): Từ 2-4 ngày với các biểu hiện sốt cao 39 - 40oC, viêm long đường hô hấp trên và viêm kết mạc, đôi khi có viêm thanh quản cấp, có thể thấy các hạt nhỏ có kích thước 0,5-1 mm màu trắng/xám có quầng ban đỏ nổi gồ lên trên bề mặt niêm mạc má (phía trong miệng, ngang răng hàm trên) - hạt Koplik.
|
Các đốm Koplik xuất hiện ở niêm mạc miệng từ rất sớm và là dấu hiệu phân biệt bệnh sởi.
|
Giai đoạn toàn phát: kéo dài từ 2-5 ngày. Thường sau khi sốt cao 3-4 ngày, người bệnh bắt đầu phát ban, ban hồng dát sẩn, khi căng da thì tan biến mất, xuất hiện từ sau tai, sau gáy, trán, mặt, cổ, dần lan đến thân mình và tứ chi, cả ở lòng bàn tay và gan bàn chân. Khi ban mọc hết toàn thân thì thân nhiệt giảm dần.
Ban sởi giai đoạn này có đặc điểm: đường kính 3-6 mm, màu hồng nhạt, dày, nổi ghồ trên da, căng da thì biến mất, có hình bản đồ và liên kết nhau thành từng mảng lớn. Trong giai đoạn này bệnh nhân có thể ho nhiều do viêm long đường hô hấp, tiêu lỏng nhiều do viêm long đường tiêu hóa.
|
Nốt sởi ban đầu có màu hồng nhạt, nhưng sau đó sẽ đỏ dần lên.
|
Giai đoạn phục hồi: Ban nhạt màu dần rồi sang màu xám, bong vẩy phấn xẫm màu. Những chỗ da thâm của ban bay và chỗ da bình thường tạo nên màu da loang lổ “vằn da hổ”- dấu hiệu để truy tìm chẩn đoán và biến mất theo thứ tự như khi xuất hiện. Nếu không xuất hiện biến chứng thì bệnh tự khỏi. Có thể có ho kéo dài 1-2 tuần sau khi hết ban.
Đối với thể không điển hình:
Biểu hiện có thể chỉ có sốt nhẹ thoáng qua, viêm long nhẹ, phát ban ít, toàn trạng tốt. Thể này dễ bị bỏ qua, dẫn đến lây lan bệnh mà không biết. Tuy nhiên, người bệnh cũng có thể sốt cao liên tục, phát ban không điển hình, phù nề tứ chi, đau mỏi toàn thân, thường có viêm phổi nặng kèm theo.
Biến chứng của bệnh
Trong giai đoạn khởi phát có thể có giả ho gà, gây cơn khó thở do co thắt thanh quản.
Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm, trong giai đoạn phục hồi, có thể bị bội nhiễm gây: viêm phế quản; viêm phổi; viêm não, viêm màng não; viêm tủy; viêm ruột với biểu hiện tiêu chảy nặng; cam tẩu mã (bệnh Noma) gây hoại tử niêm mạc miệng, hơi thở có mùi hôi; viêm mũi họng; viêm tai xương chũm; biến chứng mắt - khô loét giác mạc, có thể để lại di chứng mù vĩnh viễn; bùng phát lao tiềm ẩn, thậm chí có thể viêm não dễ dẫn đến tử vong, bệnh đặc biệt nghiêm trọng ở trẻ nhỏ, trẻ suy dinh dưỡng; sảy thai, sinh non khi mắc sởi ở phụ nữ đang mang thai.
Chăm sóc và điều trị tại nhà
Hiện nay, bệnh sởi chưa có điều trị đặc hiệu. Nếu đủ điều kiện chăm sóc và cách ly, có thể chăm sóc và điều trị tại nhà. Với trẻ nhỏ, cần chú ý không cho trẻ bị bệnh tiếp xúc với trẻ lành. Trẻ bị sởi phải nghỉ học để tránh lây lan cho trẻ khác trong lớp học, trong trường.
Uống thuốc hạ sốt khi sốt từ 38,5 độ C trở lên, nhỏ mắt bằng nước muối 0,9% , bổ sung vitamin A để dự phòng thiếu vitamin A, giúp bảo vệ mắt nhưng phải theo hướng dẫn của bác sĩ.
Vệ sinh thân thể, thay quần áo, vệ sinh môi trường xung quanh, giữ gìn phòng thông thoáng sạch sẽ.
Không kiêng khem trong chế độ ăn. Đảm bảo ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, tăng cường các loại hoa quả có màu đỏ, màu cam, uống nhiều nước.
Người chăm sóc cần đeo khẩu trang, rửa tay sạch trước và sau mỗi lần tiếp xúc. Trẻ còn bú mẹ vẫn tiếp tục cho bú và kết hợp chế độ ăn bổ sung hợp lý, chế biến thức ăn: mềm dễ tiêu, nấu chín kỹ, ăn nhiều bữa nhỏ trong ngày.
Thời gian người bệnh cần cách ly là từ lúc nghi mắc sởi cho đến ít nhất 5 ngày sau khi bắt đầu phát ban.
Trong thời gian chăm sóc và điều trị tại nhà, người bị sởi có các dấu hiệu bất thường như xuất hiện sốt lại, ho nhiều hơn và có đờm, có biểu hiện chói mắt hoặc có các biểu hiện bất thường khác... cần đưa đến cơ sở y tế để được khám lại và xử trí kịp thời.
Dự phòng bệnh sởi
Tiêm chủng vắc xin sởi cho trẻ từ 9 tháng tuổi là biện pháp hiệu quả nhất để phòng ngừa bệnh sởi. Để phòng bệnh có hiệu quả, trẻ cần được tiêm 2 mũi. Mũi thứ nhất được tiêm khi trẻ 9 tháng tuổi, chỉ có 80-85% trẻ có đáp ứng miễn dịch; mũi thứ hai được tiêm khi trẻ 18 tháng tuổi, tỷ lệ bảo vệ là 90-95%. Sau khi mắc sởi xong hoặc sau khi được tiêm đủ 2 mũi vắc xin theo lịch tiêm chủng thì có miễn dịch có thể bền vững suốt đời.
Ngoài ra, có thể phòng tránh bệnh bằng cách không cho trẻ tiếp xúc với nguồn lây. Các biện pháp hỗ trợ khác, như: giữ ấm, vệ sinh thân thể, tăng cường dinh dưỡng.
Thanh Nga
Facebook
Tweet
Mail
Google-plus
Các tin khác