25/11/2014 12:00
Một bài thơ trong nhiều thư của anh Hiệp gửi cho người vợ yêu quí:
Những lần trước Anh nói gì Em nhớ!
Và hôm nay Anh nhắc nhở Em thêm
Trong đời ta không phải chỉ êm đềm
Mà nó sẽ nổi chìm trong thử thách.
Anh mong Em đấu tranh cho thiệt chặt
Và cũng đừng nghĩ gì vụn vặt,
Đừng thờ ơ và cũng đừng thắt chặt hoài nghi
Ta đã đi cứ đứng thẳng ta đi
Ta đã nghĩ, đã suy ta đã nói
Với tất cả những lời chăn gối
Trong đời ta quyết giữ mối tình đầu
Không thể để phai màu, bay sắc thắm
Dù ta phải trải qua bao cay đắng
Nhưng ngày mai khi đất nước thanh bình
Hai đứa sẽ chung mối tình bất diệt.
(Kỷ niệm ngày báo cáo 10.9.1971).
Bài thơ Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp gửi người vợ thân yêu Nguyễn Thị Hồng Liên.
Không nỗi đau nào hơn nỗi đau mất đi người chồng, người cha, người đồng chí, đồng đội của chính mình, dẫu biết cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ của cả dân tộc chắc chắn không tránh khỏi sự hy sinh, nhưng sự hy sinh với Liên thì quá lớn bởi tình yêu của Hiệp dành cho Liên và cô con gái bé bỏng trên tay và cả sinh linh đang tượng hình trong bụng nữa. Lần dở những trang thư, lời thơ mang nặng tình cảm vô bờ, tình đồng chí mãnh liệt mà Anh để lại, cùng tấm hình của Anh, đôi mắt đẹp của Liên cứ tuôn rơi dòng nước mắt tưởng chừng như không bao giờ dứt được. Liên đã bồng con gái Kiều Định tới phần mộ của anh Hiệp được đồng đội chôn cất tại bìa rừng, bên rặng cây ô rô nơi Anh ngã xuống, lặng ngắm nấm đất đỏ sắc màu của miền Đông qua hàng nước mắt… Người chồng, người đồng chí mới hôm qua còn ôm ấp vợ con trong vòng tay rắn chắc yêu thương, giờ đã đi xa xa mãi không bao giờ trở lại, đau sót biết nhường nào. Bé Kiều Định ngây thơ nhìn Mẹ khóc, đôi mắt chớp chớp cùng những giọt nước mắt trong veo rơi xuống theo nỗi buồn của Mẹ.
Những kỷ niệm thật đáng nhớ và tự hào của Anh trước ngày hy sinh lại trào về trong ký ức của Liên: Một lần trong chuyến công tác lên vùng căn cứ khu vực dân tộc, Anh cùng đồng đồng đội thấy cả làng người đồng bào đang náo loạn cuống quít cõng con, bắt súc vật chuyển đồ đạc thóc lúa để chuyển làng, một số thành niên thì chuẩn bị lửa để đốt nhà. Anh đã bình tĩnh hỏi người già làng về căn nguyên phải chuyển cả ngôi làng khá trù phú với bao công sức gây dựng nên của bà con, khi nghe già làng nói trong làng có người bị cùi (hủi) mới chết trong căn nhà cuối làng. Anh đã tức tốc chạy khắp làng gặp tất cả mọi người giải thích về căn bệnh nan y này và nói cách xử lý người chết bệnh với già làng, đồng thời khuyên nhủ mọi người hãy an tâm ở lại làm ăn nơi làng cũ không phải đốt làng chuyển chỗ dựng làng mới. Anh tự tay cùng đồng đội lấy tăng ni lon của mình bọc kỹ xác người chết bệnh đưa đi chôn sâu ở nơi xa nguồn nước và bãi thả của làng, lại tự tay xử lý các vật dụng, dỡ bỏ ngôi nhà của người đã khuất mang ra ngoài làng tiêu huỷ. Dân làng nhìn anh cán bộ cùng đồng đội làm sạch nơi người bệnh chết đã phần nào tin tưởng, Anh lại nói rõ cho mọi người biết bệnh này rất khó lây và không phải khi người bệnh chết thì “con bệnh” đi tìm người khác như mọi người lầm tưởng. được Già làng nghe ra và ủng hộ nên cả làng đã yên tâm ở lại làm ăn, không đốt nhà chuyển làng làm đảo lộn cuộc sống vốn khó khăn vất vả trong chiến tranh. Dân làng từ đó đã ổn định lại nơi sinh sống cũ nên rất cảm ơn Anh, mỗi lần Anh công tác qua lại được dân làng đón tiếp như ân nhân của làng.
Còn ở đơn vị, ngoài những lúc công tác và làm việc được phân công, Anh lại thường giúp đỡ các anh chị nhà bếp thông lại ống thông hơi của bếp Hoàng Cầm đảm bảo xả khói đều để máy bay do thám của Mỹ nguỵ không phát hiện, lấy dù pháo sáng bọc lại mũ cho các chiến sỹ bảo vệ, thay dây bấc đèn ló cho các giao liên đi làm nhiệm vụ đêm. Anh lại mày mò chặt những cây có chạc ba để ở đầu võng của anh em, mỗi khi mưa xuống lấy cây chạc ba ấy ngoắc vào đầu dây võng cắm xuống đất, nước chảy từ cây mắc võng theo dây được cây chạc ba ấy dẫn xuống đất, không chảy vào võng làm ướt người nằm, cả đơn vị ai cũng khen Anh khéo tay và thông minh. Ngoài ra anh em bị sốt nóng, cảm mạo Anh ra ven rừng hái hương nhu, đinh lăng và mấy loại lá có dầu thơm nấu nồi nước lá ấy chùm tấm tăng để xông giải cảm sốt, Anh bảo đây là bài thuốc dân gian Mẹ truyền dạy lại cho Anh, nhờ vậy anh em cán bộ chiến sỹ trong đơn vị nhiều người qua được cơn sốt rừng trong điều kiện thuốc men trong căn cứ rất khan hiếm. Anh là tấm gương của sự nhẫn nại kiên trì lại luôn yêu đời nên cả đơn vị rất quí mến Anh. Anh mất đi là tổn thất lớn không chỉ của mẹ con Liên mà cả đơn vị.
Sau Thủ Dầu Một, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Sài Gòn giải phóng, đất nước sạch bóng quân xâm lược và bè lũ bán nước, giang sơn thu về một mối, Nam Bắc một nhà. Những ngày đầu giải phóng với bao công việc bận rộn việc tiếp quản các cơ sở kinh tế xã hội của chế độ cũ, xây dựng hệ thống chính quyền của nhân dân, tổ chức đội ngũ cán bộ và thiết lập bộ máy điều hành xã hội theo chế độ mới… với nhiều công việc được giao phó dù Kiều Định, Kiều Lý ( sinh sau khi Anh hy sinh sáu tháng) còn bé nhỏ nhưng Liên luôn hoàn thành nhiệm vụ và khéo léo chăm sóc hai con lớn lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và các đồng chí đồng đội cùng người thân. Nhiều lúc Liên vẫn phải kìm nén nỗi đau của mình để chú tâm với công việc bộn bề và mới mẻ, nhưng nỗi nhớ người chồng thân yêu vẫn còn nằm lại nơi ấy trên căn cứ kháng chiến thì cứ ào về khắc khoải, hằng ngày mỗi khi ngắm nhìn hai con bi bô học nói, ríu rít gọi mẹ ngày đất nước đã thanh bình như lời thơ của Anh để lại, thì nỗi đau của sự hy sinh mất mát của mình của con lại dâng lên tràn ngập con tim Liên. Được sự hỗ trợ của anh em đơn vị cùng ban chỉ huy Tỉnh Đội, ngày 27 tháng 7 năm 1976 Liên cùng hai con đã đưa hài cốt của người chồng, người cha về nghĩa trang liệt sỹ tỉnh Sông Bé an táng, người con trai đất Bắc đã yên nghỉ trên mảnh đất Anh đã sống, chiến đấu ngoan cường, đã nảy sinh một tình yêu bất diệt và hy sinh anh dũng.
Hai con gái lớn lên, mỗi lần tới ngày giỗ Anh 22 tháng 5 hằng năm, hay ngày thương binh liệt 27 tháng 7, các bác, cô chú tới thăm nhà, thắp nén hương cho Anh… Kiều Định lại nắm tay em hỏi: Mẹ ơi vậy quê Ba con ở đâu? Sao Mẹ không đưa con về với ông bà nội? Liên lại ôm hai con vào lòng, nước mắt rưng rưng: Ba con quê ở phố Hàng Cau, thành Nam tỉnh Nam Định con ạ, Mẹ hứa sẽ tìm được quê ở ngoài đó rồi đưa các con về nhà nội nhận họ hàng con ạ. Từ câu nói của con trẻ mỗi ngày cũng là nỗi niềm đau đáu của Liên suốt biết bao ngày tháng kể từ khi tiếng súng đã im trên mảnh đất miền Đông anh dũng kiên cường này. Liên đã viết bao lần thư gửi về địa chỉ phố Hàng Cau, thành phố Nam Định ấy, mỗi lần thư đi là một lần khắc khoải mong chờ, thư gửi bao lần rồi thư lại trả về, không có người nhận. Liên cũng đã hơn một lần kết hợp đợt học nâng cao nghiệp vụ ở Hà Nội về thành phố Nam Định, tìm tới phố Hàng Cau dò hỏi tin tức gia đình Anh Vũ Quang Hiệp tức Vũ Như Hưng, nhưng cả mấy lần tìm về trốn ấy, mấy người được hỏi trên dãy phố đều lắc đầu, có cụ bà bán nước chè đầu phố cho biết trước sơ tán máy bay thì phố Hàng Cau đông đúc lắm, sau sơ tán đã ít gia đình trụ lại, tới năm bảy hai bom rải trúng cả dãy phố nên cũng không biết ai còn, ai mất hay siêu dạt nơi đâu. Anh Trưởng khối phố thì khẳng định là trong sổ bộ của địa phương không có gia đình nào có con trai đi bộ đội năm sáu mươi bảy tên là Hiệp cả…
Thời gian trôi đi nhanh, con gái cả Kiều Định đã lớn và học xong trường sư phạm của tỉnh, được bố trí công tác tại trường một trường tiểu học ngay thị xã Thủ Dầu Một. Kiều Định có nét đẹp giống mẹ Liên và đôi mắt thì đồng đội, bạn bè của ba Hiệp, mẹ Liên đều khẳng định đó là đôi mắt in hệt người Cha thân yêu, sâu trong ánh mắt ấy có nỗi buồn thăm thẳm của sự mất mát qua cuộc chiến tranh vĩ đại của thế hệ đi trước. Trong buổi giao lưu thanh niên nhân ngày nhà giáo việt nam, ánh mắt buồn với vẻ đẹp thuần khiết và dịu dàng của cô giáo đã làm rung động người con trai đại diện Đoàn thanh niên của đơn vị Đài Phát thanh Truyền hình Tỉnh. Tình yêu đến với hai người như một lẽ tự nhiên khi họ thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, những ước mơ thật đời thường nhưng cháy bỏng của người con gái quê miền Bắc mà chưa một lần được đặt chân về quê cha đất tổ. anh phóng viên Đài Tỉnh đã thề với người yêu rằng mình sẽ tìm được họ hàng, người thân của Kiều Định ở tỉnh Nam Định ấy. Tình yêu chín muồi và Họ đã chung tay xây dựng tổ ấm, vun đắp hạnh phúc gia đình bé nhỏ với cô gái nhỏ chào đời vào năm sau bên cạnh người bà ngoại tần tảo một đời chăm sóc con cháu.
Trong tim luôn tâm niệm lời hứa với người vợ trẻ, người phóng viên là con rể của liệt sỹ đã trở lại phố Hàng Cau, thành phố Nam Định thêm hai lần nữa, tuy nhiên những thông tin về gia đình người cha thân yêu vẫn mờ mịt, Anh đã gặp cả hội Cựu chiến binh của khu phố và thông tin cuối cùng nhận được là do thời chiến tranh nên mọi tin tức đều được giữ bí mật, có đồng chí cựu chiến binh cũng nhập ngũ năm sáu mươi bảy sau yếu sức không được đi B cho biết: hồi đó đơn vị huấn luyện tại Thanh Hoá xong thì vào miền Nam chiến đấu, hy sinh nhiều. Ngoài ra cũng không rõ thông tin cụ thể về liệt sỹ Vũ Quang Hiệp tức Vũ Như Hưng ở phố Hàng Cau. Người con rể trở về nhà trao đổi với mẹ Liên về những thông tin thu nhặt được và nhấn mạnh về việc ba Hiệp sinh thời trước lúc hy sinh có nhắc tên của người thân trong gia đình ở ngoài quê! Mẹ Liên trầm ngâm suy tư rồi chợt à lên: hồi đó Ba có nhắc tới người chú hay cậu tên là Thìn…
Sau khi chia tách tỉnh, anh con rể được tổ chức phân công lên công tác tại Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh Bình Phước, sau đó được đi học nâng cao trình độ chuyên môn đại học Báo chí tại thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắk Lắk. Đây là điều kiện để Anh có thời gian trau dồi kiến thức và cũng là địa bàn sau giải phóng các cán bộ của tỉnh Nam Định được điều động vào hỗ trợ cho khu vực Tây Nguyên còn rất thiếu cán bộ lúc bấy giờ. Với hy vọng mong manh, Anh đã tích cực dò hỏi các khu vực người dân xây dựng kinh tế mới tại Đắk Lắk và cán bộ quê gốc tỉnh Nam Định đang công tại tại đây, nhưng cũng không có thông tin gì khả quan hơn. Năm 2007 chương trình NHẮN TÌM ĐỒNG ĐỘI Matin ra đời, ngay từ những ngày đầu được tiếp xúc với các thông tin rất hữ ích của hệ thống tổng hợp các tư liệu, các tin tức quí giá đã giúp khá nhiều gia đình tìm được hài cốt Liệt sỹ, các trường hợp thân nhân gia đình Liệt sỹ cũng tìm được nhau sau bao cách trở… đã làm dấy lên niềm tin cho cả gia đình. Ngày 8 tháng 7 năm 2007 trên trang NHẮN TÌM THÂN NHÂN LIỆT SỸ được đăng trên trang NHẮN TÌM ĐỒNG ĐỘI do anh con rể đưa lên:
Nhắn tìm thân nhân L.S Vũ Quang Hiệp ( tên thật là Vũ Như Hưng)
Ngày sinh: 1949
Quê quán: tỉnh Nam Định.
Ngày hy sinh: 22.5.1973
Nơi hy sinh: Hố Le, Thới hoà, Bến Cát, Bình Dương.
Ai là thân nhân Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp (Vũ Như Hưng) xin vui lòng liên hệ với chúng tôi: Vũ Thị Kiều Định. Địa chỉ 34/3 tổ 14, khu phố 5, phường Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Đt: 0650836389. hoặc Huỳnh Mạnh Tiến. Đài Phát thanh – Truyền Hình tỉnh Bình Phước. đt: 0983957788.
Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp ( Vũ Như Hưng) nhà trước đây ở phố Hàng Cau, Tp Nam Định, tỉnh Nam Định. Có người người chú tên Thìn.
Kỳ 3: CUỘC TRÙNG PHÙNG GIA ĐÌNH LIỆT SỸ SAU BỐN MƯƠI NĂM TÌM KIẾM
Bút ký: Tiến Hoàng
Ảnh: Bảo Châu
Facebook
Tweet
Mail
Google-plus
Các tin khác