25/11/2014 12:00
Câu chuyện bắt đầu từ thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk sau giải phóng khi người anh cả của Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp là anh Vũ Quang Huân từ quê hương Nam Định vào xây dựng vùng kinh tế mới trong ngành lâm nghiệp tại tỉnh Đắk Lắk, mang theo lời dặn của Cha: “Con vào Nam công tác, nhớ tìm mộ phần của em Hiệp hy sinh trong đó quãng những năm bảy mươi, em con nằm ở nơi nào đấy ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên đấy con nhé…”. Nhớ lời dặn của Cha, anh Huân và sau này cả em út là anh Tuất cũng chuyển vào Đắk Lắk làm ăn đã cố công, ra sức đi tìm nơi hy sinh và mộ phần của anh em ruột thịt: Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp nhưng đều bặt vô âm tín. Những năm đầu sau giải phóng, tình hình an ninh chính trị Đắk Lắk khá phức tạp với bọn Phunro quấy nhiễu và chiến tranh biên giới tây nam diễn ra quyết liệt, nên mãi tới những năm chín mươi hai anh, em mới có điều kiện đi tìm mộ của người Em thứ tư ở những nghĩa trang liệt sỹ khu vực và cả các tỉnh lân cận như Sông Bé, Lâm Đồng, Đồng Nai. Nhưng lúc ấy các nghĩa trang liệt sỹ chưa được qui tập nhiều và bia mộ các liệt sỹ cũng còn sơ sài, danh sách liệt sỹ không thể thống kê đầy đủ và phần mộ liệt sỹ chưa biết tên là chủ yếu, vì vậy việc tìm mộ liệt sỹ Vũ Quang Hiệp quê quán Nam Định trong hàng trăm nghĩa trang cấp tỉnh, huyện, xã… thật là vô cùng khó khăn như mò kim đáy biển.
Di ảnh, những lá thư, bài thơ Liệt sỹ Vũ Quang Hiệp gửi người vợ thân yêu.
Trở lại miền Đông Nam bộ những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, Sông Bé trước đây và Bình Dương bây giờ là địa bàn chiến lược của cả ta và địch để khai thông cánh cửa thọc thẳng vào đầu não quân Mỹ Nguỵ tại Sài Gòn, nên cả ta và địch đều giành giật từng tấc đất, người dân trên địa bàn quan trọng này. Nhiều trận đánh ác liệt diễn ra giữa ta và địch, bọn Mỹ nguỵ thường ỷ thế đông quân Mỹ và chư hầu cùng lực lượng nguỵ quân với vũ khí hiện đại máy bay, xe tăng, pháo binh hạng nặng càn quét tấn công hòng đánh bật quân chủ lực và tiêu diệt lực lượng địa phương và chính quyền cách mạng tại nơi đây. Nhưng với phương trâm lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, nắm thắt lưng địch mà đánh, với sự hiệp đồng chặt chẽ của quân chủ lực với địa phương, quân ta đã giáng trả đích đáng, tiêu diệt nhiều quân Mỹ nguỵ và bắn rơi, bắn cháy, phá huỷ nhiều máy bay, xe tăng của địch. Giữ vững vùng căn cứ cách mạng từ đồng bằng lên tới chiến khu và đảm bảo thông suốt con đường huyết mạch từ miền Bắc tới Trung ương cục miền Nam, làm điểm tựa cho quân dân ta tiến công và nổi dậy tiến tới giải phóng Sài gòn, thống nhất đất nước ngày 30.4.1975.
Trong cả cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ cùng những trận đánh ác liệt ấy, rất, rất nhiều những người con ưu tú, những người chiến sỹ cách mạng kiên trung đã ngã xuống trên mảnh đất này, máu của các anh đã thấm đẫm từng cành cây, ngọn cỏ để từ mảnh đất đầy máu xương của các anh lại nảy lộc đâm chồi, đơm hoa kết trái cho cuộc sống mới hôm nay và mai sau. Một người con ưu tú của mảnh đất Nam Định giàu truyền thống lịch sử với hào khí Đông A xưa kia tiêu diệt ba đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh, ngày nay đã góp phần máu thịt của mình cho mảnh đất, cây cỏ miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên anh dũng. Đó là liệt sỹ Vũ Quang Hiệp. Sinh ra tại quê hương xã Nghĩa Hồng, huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định, nhưng lớn lên ở phố Hàng Cau thành phố công nghiệp dệt Nam Định, năm 1967 khi chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ leo thang ác liệt, dù đã có hai anh đi bộ đội nhưng người thanh niên Vũ Quang Hiệp vẫn viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ.
Sau những tháng ngày huấn luyện tại miền núi Thanh Hoá, đơn vị của anh được lệnh hành quân vào miền Nam chiến đấu. trải qua một chặng đường dài hành quân trải dọc theo dãy Trường sơn, vừa đi vừa đánh quân thám báo, biệt kích và vượt qua những trọng điểm bom Mỹ dội vô cùng ác liệt đơn vị đã tới điểm tập kết tại nam Tây Nguyên trong vùng rừng núi Đắk Lắk và chuẩn bị bổ sung cho mặt trận Phước Long, Tân Uyên của vùng Đông Nam Bộ. Lúc này sau chiến dịch Mậu Thân ta đã thu được những chiến thắng vang dội cả trên mặt trận và trên trường quốc tế, tuy nhiên lực lượng ta cũng hao hụt đáng kể, vì vậy đơn vị Anh mới bổ sung đã làm tăng sức chiến đấu cho mặt trận này rất nhiều. Quân địch cũng ra sức càn quét với âm mưu làm sạch “cỏ” miền Đông mở rộng vùng kiểm soát của chúng. Đơn vị quân chủ lực của anh Hiệp đã đánh nhiều trận lớn nhỏ tiêu diệt nhiều quân Mỹ nguỵ, đẩy lùi nhiều trận tấn công của địch trên các địa bàn quan trọng để giữ vững thế chủ động chiến lược.
Đầu năm bảy mươi, trong một trận chống càn của sư đoàn 25 thuỷ quân lục chiến Mỹ, sau trận đánh trên đường rút về căn cứ, anh Hiệp bị thương mất máu nhiều và ngất đi bên đường lộ giao liên của Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một. Các cán bộ Văn phòng Tỉnh uỷ đi công tác trên đường về phát hiện ra anh đã cáng anh Hiệp về cơ quan Tỉnh uỷ cứu chữa, vết thương chưa lành Anh đã báo cáo lãnh đạo Văn phòng Tỉnh uỷ cho trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu, tuy nhiên mấy lần giao liên đưa đi không tìm được đơn vị. Lãnh đạo Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một sau khi xem xét giấy tờ và kiểm tra nhân thân đã bố chí Anh ở lại công tác tại ban bảo vệ chính trị nội bộ. Với nhiệm vụ phòng gian bảo mật, diệt ác, chỉnh huấn cán bộ chiến sỹ, tuyên truyền nhân dân đấu tranh chính trị và binh vận… với nhiệm vụ nào anh Hiệp cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đặc biệt trong hoạt động cách mạng, dù nhiều khó khăn cực khổ và sự hy sinh luôn cận kề, Anh lại rất yêu đời có khiếu văn nghệ, làm thơ và kể chuyện vui nên cả đơn vị luôn gọi Anh là Như Hưng tếu ( Như Hưng vốn là tên gọi hồi nhỏ của anh Hiệp, khi về văn phòng Tỉnh uỷ Anh cứ ví Như Hưng giống Ba Hưng du kích tếu thời chống Pháp chiến đấu ngoan cường).
Và tình yêu đã đến với anh Hiệp và chị Nguyễn Thị Hồng Liên, nhân viên văn thư mật mã của Tỉnh uỷ. cô gái miền Đông Nam bộ đã cảm mến người con trai thành Nam đất Bắc đã trưởng thành và chiến đấu dũng cảm trên mặt trận miền Đông thành đồng tổ quốc. Đơn vị và lãnh đạo đã vun đắp cho tình yêu đẹp thời chiến tranh khốc liệt, đám cưới giản dị và ấm cúng với những lời ca tiếng hát cùng sự chúc mừng hạnh phúc đôi uyên ương của toàn đơn vị trong chiến khu, đã làm nhân lên cảm xúc tình yêu dạt dào của người con trai xa quê với người con gái chung một chiến hào đấu tranh cho giải phóng quê hương. Mọi người đều dành tấm tăng che mưa tốt nhất của mình để đôi vợ chồng trẻ có đêm tân hôn yên lành, hạnh phúc nhất giữa những cơn mưa rừng trong chiến khu. Cuối năm bảy hai, cô con gái nhỏ Vũ Thị Kiều Định cất tiếng khóc chào đời cô bé có đôi mắt đen huyền như bố Hiệp và khuôn mặt đẹp như trăng rằm của mẹ Liên, hạnh phúc dâng trào không chỉ riêng cho đôi vợ chồng trẻ mà còn là sự vui mừng khôn xiết của cả đơn vị Văn phòng Tỉnh uỷ lúc đó vì mảnh đất gieo hạt của tình yêu Nam Bắc một nhà đã đơm hoa, kết trái ngọt. Sang năm bảy mươi ba, mẹ Liên lại báo tin vui cho bố Hiệp và cả đơn vị mình lại tiếp tục có thai…
Mỗi lần anh hiệp đi công tác, dù xa hay gần chỉ xa cách vợ con một chút thì nỗi nhớ lại trào lên, bởi vậy khi đi công tác có chút thời gian là Anh lại căm cụi ngồi viết thư cho vợ và con gái, những dòng chữ ba lô làm bàn không ngay ngắn nhưng chất chứa tràn trề những nỗi nhớ thương, tình yêu nồng nàn và sâu thẳm là sự khao khát được ôm ấp che trở, nâng niu vợ con như những vật báu không gì thay thế được ở mọi lúc mọi nơi, nhiều lá thư giao liên đưa về cho chị Liên cùng một ngày mà của mấy ngày xa cách, mỗi ngày có một lá thư. Chị Liên thấu hiểu tấm lòng của người mình yêu, Chị cũng thường động viên Anh lúc ở bên nhau và viết thư động viên Anh khi đi công tác cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, bình yên trở về ôm chặt vợ và con trong vòng tay yêu thương.
Vậy mà cái ngày 22 tháng 5 năm 1973 định mệnh ấy! hôm ấy chuẩn bị tài liệu xong cho nhiệm vụ quan trọng được cấp trên giao phó tại căn cứ Bù Chí, Bến Cát. Lặng yên ngồi đợi trinh sát báo an toàn để lên đường, cầm cây viết và mảnh giấy viết thư quen thuộc, Anh viết được ít dòng với câu đầu tiên bao giờ cũng là Liên em yêu quý, con gái nhớ thương của Bố… trang giấy còn dang dở khi có tín hiệu báo yên, Anh gập thư lại đưa cho giao liên chuyển về đơn vị cho vợ. Bật nắp hầm lên và Anh tiến về phía trước, qua hàng cây ô rô bất chợt thấy nguyên bờ cỏ phía trước lay động bất thường, Anh vội quay ngược lại rảo chân chạy gấp, có tiếng hò hét: đứng lại… ta o bă n bắn. tiếng súng rộ lên. Chưa chạy tới hàng cây ô rô bắp chân bên phải chợt chùng xuống nhói đau, Anh vội cho tay vào ngực áo lấy tập tài liệu, rút vội ống axit bóp mạnh đầu và xả hết vào tập tài liệu trước khi ngã xuống, rút súng ngắn quay đầu lại phía quân địch đang xông tới bóp cò… mặt đất chợt sáng loà toả muôn ngàn tia lửa cùng tiếng M79 nổ, hình ảnh cuối cùng trong ý nghĩ là Liên đang bồng cô con gái nhỏ trên tay…
(Mời độc giả đón đọc Kỳ 2: HÀNH TRÌNH GIAN NAN TÌM GIA ĐÌNH LIỆT SỸ trên số tiếp theo)
Bút ký: Tiến Hoàng
Ảnh: Bảo Châu
Facebook
Tweet
Mail
Google-plus
Các tin khác